Subscribe Twitter FaceBook

"Nhất Thất Nhân Thân, Vạn Kiếp Nan Phục" - "Thân Người Mất Đi Vạn Kiếp Khó Khôi Phục"

Tuesday, July 27, 2010

Giáo Dục

Hiện tại mọi người đi học chỉ vì danh lợi. Cách phát âm hai chữ Minh Lý và Danh Lợi trong tiếng Tàu gần giống nhau, nhưng ý nghĩa thì lại khác xa đến tám mươi bốn ngàn dặm !
Trẻ em như mầm non đang lớn; cành cây mọc ra um tùm cần phải được cắt tỉa thì tương lai mới trở thành vật liệu hữu ích được.
Nầy các bạn trẻ ! Các bạn có biết căn bản làm người là gì không ? Đó là tám đức tánh hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩ.
Tại sao hiện nay trên thế giới đầy dẫy những tội lỗi do thanh thiếu niên gây ra ? Vì những bậc làm cha mẹ chỉ lo sanh con chứ không lo chăm sóc, dạy dỗ.
Tâm tham của chúng ta là cái hố không đáy; nó cao hơn trời, dày hơn đất, sâu hơn biển cả, nên mãi mãi không thể lấp đầy.
Người không đạo đức mới thật là kẻ nghèo cùng.
Nếu có người đến cầu Pháp, tôi sẽ bảo người ấy nên ăn ít, mặc ít, ngủ ít một chút, vì lý do: Mặc ít thì tăng phước. Ăn ít thì tăng thọ. Ngủ ít thì tăng lộc.
Con người sống không phải vì miếng ăn mà sống để làm lợi ích cho xã hội, ban phước đức cho nhân dân, và hỗ trợ cho thế gian. Người người phải: Thay Trời đem lòng từ bi giáo hóa chúng sanh. Một lòng trung thành vì nước, cứu dân.
Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ bận rộn vì mình và cũng không bao giờ để ý đến bọc thịt thúi này.
Tại sao thế giới ngày càng băng hoại ? Vì ai ai cũng tranh danh, tranh lợi, tranh quyền, tranh địa vị, và nghiêm trọng nhất là tranh sắc dục.
Tôi muốn xin quý vị món quà lớn; đó là tánh nóng giận, ngu si, phiền não, và những tâm sân hận của quý vị.
Thiên tai không phải là thiên nhiên gây tai nạn hay thiên nhiên gặp họa nạn, mà chính là tai họa nhân loại chúng ta phải gánh chịu. Những tai họa đó chính do chúng ta tự tạo ra rồi tự chuốc lấy.
Muốn phát triển Phật giáo, chúng ta phải bắt đầu từ đâu ? Theo ý tôi, trước nhất phải bắt đầu từ nền giáo dục. Nếu bắt đầu với giáo dục thì trẻ em sẽ hiểu rõ Phật giáo. Đến khi khôn lớn, tự nhiên các em sẽ giúp cho Phật giáo được phát triển rộng rãi.
Làm việc ma tức là ma. Làm việc người tức là người. Làm việc Phật tức là Phật.
Hiện tại, tôi đang ở xứ MỸ. Tôi hy vọng dân chúng xứ này đều y theo luật pháp và thay đổi những tập tục xấu xa... Nếu hành theo luật pháp thì sẽ làm công dân tốt. Nếu dân chúng trong một quốc gia đều là công dân tốt thì họ cũng là công dân tốt của toàn thế giới.
Một trong những mục tiêu của nền giáo dục là tuyển chọn nhân tài. Nhân tài là những ai ? Là những người có trí huệ thông minh. Đối với những người chậm hiểu, chúng ta phải cố gắng giúp họ khai mở trí huệ. Đó là mục đích chính.
Tôi muốn cống hiến một nền giáo dục không những nối tiếp huệ mạng của chư Phật mà cũng nối tiếp huệ mạng của chúng sanh.
Đã hàm thụ nền giáo dục lành mạnh, sau khi ra trường, học sinh sẽ biết cách hành xử trong xã hội. Chúng sẽ có khả năng tạo ảnh hưởng tốt để thay đổi tập quán trong xã hội.
Nhân loại gần đi đến chỗ diệt vong ! Điều này không do thiên tai hoạn nạn mà do con người đã từ từ quên dần nền luân lý đạo đức.
Tạo lỗi lầm trong sự giáo dục nghiêm trọng hơn bịnh ung thư và nạn bom nguyên tử. Nền giáo dục bất chánh sẽ vô hình chung giết chết thế hệ trẻ và khiến cho họ đánh mất đi bản chất làm người, quên đi tâm linh, và không màng đến sanh mạng.
Con gái phải đợi đến hai mươi tuổi mới được có bạn trai. Con trai phải đợi đến hai mươi lăm tuổi mới có bạn gái. Bằng cách đó, thanh thiếu niên sẽ không bị hại. Nếu có bạn trai hay bạn gái quá sớm, thì các em sẽ không thể trở thành người học sinh giỏi và công dân gương mẫu. Các em phải làm người tốt và học trò giỏi để có khả năng làm việc lành trong tương lai. Nếu gặt mạ sớm trước khi chính mùi thì đó chỉ là đám mạ vô ích. Trong tương lai, nếu con người phát triển tình dục sớm, thì thế hệ sau sẽ tệ hại hơn thế hệ trước.
Trẻ em ở nước này xem tivi quá nhiều. Kết quả, trước tuổi mười bảy mười tám, chúng đã biết hẹn hò. Điều này thật tai hại vô cùng ! Chúng ta sẽ không có những nhân tài trong tương lai, vì đa số những người đó sẽ là người đần độn.
Phải dạy trẻ em những nề nếp giáo dục căn bản như không tranh, không tham, không tìm cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo, không uống rượu, không hút chích, không tà dâm. Nếu làm được như thế thì vẫn còn hy vọng để thay đổi nền giáo dục... Thật ra, nền quốc phòng căn bản nhất và triệt để nhất chính là nền giáo dục. Nếu nền giáo dục không đúng đắn thì dẫu có vũ khí quốc phòng gì cũng là vô ích... Nền giáo dục của đạo Phật là sự giáo dục cứu vớt con người bảo tồn chân tánh, tâm linh, và sanh mạng. Chúng ta đi khắp nơi đánh thức con người và thúc giục họ cải tiến nền giáo dục, kéo thế hệ trẻ tránh khỏi bờ vực tiêu vong, và xoay chuyển mối nguy hiểm diệt vong của nhân loại ở các quốc gia và trên toàn thế giới.
Tất cả sự giáo dục không thể tách rời từ chữ hiếu. Tách rời hiếu hạnh ra thì không còn nền giáo dục. Trong trời đất có vô số bài học, nhưng thực sự chỉ có một bài học Hiếu hạnh. Bài học này bao trùm tất cả sự học hỏi. Học hoàn mãn bài học này thì những bài học khác cũng sẽ được hoàn tất.
Tất cả thầy cô giáo phải làm gương cho học sinh qua hành động của mình. Phải ngay thẳng, chân thực, tự trọng, và truyền đạt trí huệ cùng niềm hy vọng đến cho thế hệ sau. Chớ nên tranh đấu hay biểu tình để thêm lương.
Tất cả mọi người đều là thầy của tôi và tôi đều là thầy của tất cả mọi người. Tôi luôn luôn tự dạy mình, và mình tự làm thầy cho chính mình.
Học hỏi không có bắt đầu hay chấm dứt. Không có lễ tựu trường đầu niên học, ngày nghỉ lễ, ngày ra trường.
Dẫu ở nơi nào, tất cả đều là trường học. Không có nơi nào mà không phải là nơi học hỏi. Không có phút giây nào là lúc mà không học hỏi.
***

Mười Phương Pháp Tu Hành

Đây là mười phương-pháp dạy trong kinh Hoa-Nghiêm, nơi phần Trị-Địa-Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương-pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ-Tát Hạnh, tại gia và xuất gia. Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương-pháp này. Đồng thời, sinh-hoạt của tăng chúng là sinh-hoạt hướng về sự giác-ngộ, phù-hợp hoàn-toàn với mười phương-pháp của kinh nêu ra. Phương-pháp ấy như sau:
1. Tụng tập đa văn
Tức là học hỏi sâu rộng Phật-Pháp. Học để biết rõ Phật-lý, chân lý. Học để tài bồi đức-hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự giải-thoát phiền-não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.
2. Hư nhàn tịch tịnh
Đây là thái-độ tự tại với đời. Nếu "đa văn" có nghĩa là chất chứa những tri-kiến, chuyện thị-phi của thế-gian, thì mình chắc chắn chiêu-cảm lấy đủ chuyện thị-phi, phiền-não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng luẩn quẩn của "việc đời". Nếu "đa văn" có nghĩa là huân-tập chân lý trong kinh-điển, tiêu-hóa (internalize) đạo lý giải-thoát, thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch-tịnh là thái-độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là nhàn, là tịch.
3. Cận thiện tri thức
Nghĩa là gần gũi những bậc thầy có kiến-địa, giác-ngộ hay giải-thoát. Hoặc gần gũi những bậc thầy có trí-huệ và đạo-đức để dắt dẫn mình tu hành. Bậc thiện-tri-thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát bồ-đề tâm, dạy mình trương dưỡng và thành-thục bồ-đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp bế-tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi thiện-tri-thức mình mới thành-tựu được đa văn, tức là nghe nhiều những lời chỉ dạy của bậc thầy.
4. Pháp ngôn hòa duyệt
Nghĩa là nói năng ôn-hoà vui-vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn-hoà, duyệt-lạc khi mà tâm mình thật sự ôn-hoà. Do đó mình phải tập thái-độ không tranh: không tranh-chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chửa. Khi tâm mình không thấy ai là kẻ thù, không có thành-kiến về ai cả, cũng không cho rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn thì mình rất dễ tự tại, ôn-hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. Những lúc ấy, trí-huệ hay tâm mình không còn khống-chế làm chủ lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình. Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán-sát và chú ý từng lời, khiến lời không ngược lại với tinh-thần "Bất tranh".
5. Ngữ tất tri thời
Tức là nói cho đúng lúc. Cổ-nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. Nếu người ta tỏ thái-độ khó chịu, không muốn nghe, buồn-bực thì chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông dài. Việc vô-ích, vô nghiã, việc thế-tục thì người tu không nên nói. Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế-tục, chuyện tranh-chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh thường và chỉ-trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe phát khởi lòng tin, phát bồ-đề-tâm, hoặc giải-trừ được bế-tắc và phiền-não trong đời sống. Nên tập quán-sát thời-cơ, nhân-duyên rồi hãy phát biểu.
6. Tâm vô khiếp bố
Tức là tâm không sợ hãi , bố-úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể thọ nhận. Không bố-úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể thực-hành. Khi tâm có hy-vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào cũng có bố-úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp-bố là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi-ích gì.
7. Liễu đạt ư nghĩa
Tức là dùng trí-huệ tư-duy, giải đạt thâm nghiã. Đây không phải là hiểu bề ngoài, hay học thuộc làu. Liễu đạt nghiã-lý tức là thấy được sự thể hiện của nghiã-lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên-cứu đoạn: "Thế-gian vô-thường, quốc độ nguy thuý..." mình cần phải thấy sự vô-thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là qua trực-giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô-thường ở trần-gian.
8. Như pháp tu hành
Trong quá trình liễu đạt thâm nghiã, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu rõ, cũng không thể dùng cảnh-giới bên ngoài để minh chứng, những lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh-giới thiền-định để giải đáp. Bởi vậy người tu cần phải "Như pháp tu hành" để phát triển năng-lực thấu hiểu chân-lý bén nhạy hơn khả-năng của đầu óc suy tư này. Như pháp có nghiã là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân-lý, đúng với giới-luật, hợp với đạo đức nhân nghiã. Khi tu không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện-tri-thức chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, hoặc là tự mình sáng tác ra phương-pháp cách thức hoàn-toàn không theo một tiền-đề, hệ-thống hay quy củ, giới-luật nào cả. Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẽ khác biệt, lập dị; Khi không cùng tu, không hoà-đồng với đại-chúng, mình phải quan-sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành thì không bao giờ có "cái mình", "cái tôi" đặc biệt "nổi" hơn kẻ khác cả.
9. Viễn ly ngu mê
Gốc ngu mê là ở lòng dục-vọng, phiền-não, chấp-trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền-não, bớt nóng giận, bớt cống cao, bớt dục-vọng. Do đó sẽ thêm sáng-suốt, nên Phật dạy phải "siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân. si". Phải để ý năm thứ mà dục-vọng thèm khát nhất: 1/ Tiền tài, vật chất, tivi, video. 2/ Sắc đẹp trai gái: cửa sắc dục mà không thoát được thì tu pháp môn cao siêu tới đâu cũng vô-ích, không thể giải-thoát. Kinh Lăng-Nghiêm dạy: "Dâm tâm không trừ, không thể thoát trần". 3/ Danh vọng, địa vị, tên tuổi: Mong được kẻ khác cung kính, trọng vọng cũng là hình-thức mê-muội vô cùng. 4/ Ăn uống: Thích ăn ngon, ăn sang cũng là một dục vọng đáng sợ; bởi vì thực dục chỉ là biến hoá từ sắc dục mà ra. 5/ Ngủ nghỉ: Hay nói đúng hơn là lòng ưa thích hưởng thụ, sung-sướng, làm biếng, ngồi không cho qua ngày. Khi lòng ưa thích này biến thành nghiện thì càng nguy hại hơn nữa, ví dụ như ngày nay nhiều người nghiền thuốc, rượu, bài bạc, chơi computer hay xem phim bộ, v.v.. Năm thứ trên đều cần phải lánh xa.
Nói về duyên của sự ngu mê thì có lẻ nên nói thêm về những thứ khiến mình nẩy sinh tà-kiến: 1/ Tivi, video với những chương-trình đầy dẫy bạo lực, dâm-dục, ô-nhiễm. 3/ Bạn xấu hay kẻ thiếu tri-kiến về chân-lý; Nếu người bạn có quá nhiều thói hư tật xấu thì khó thể giúp đở, gây ảnh hưởng tốt cho mình, mà mình nếu không đủ trí huệ và phương tiện, cũng không giúp đở gì y được.
10. An trụ bất động
Tâm chỉ bất động khi nào tâm an-trụ hay thấy được sự thật, chân-lý bất biến. Bởi vậy trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát-triển con mắt biết thẩm-thấu sự thật hay chân-lý, gọi là Trạch-Pháp-Nhãn. Phải biết nhìn xuyên thủng hiện-tượng hay hình-tướng để biết đặng chân-lý. Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an-định, dù ở bất cứ hoàn-cảnh trắc-trở, xáo-động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị tình-dục, phiền-não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới thật sự an-trụ bất động. Mười phương-pháp trên, đa số đều dùng trí-huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được chỗ viên mãn. Song những phương-pháp trên, có thể nói, vô cùng thực tiển cho những ai sống trong tùng lâm: cứ tu tập theo chúng thì đường đạo ắt phải tiến-bộ.

(From: Bo De Hai Online, January 1997, http://saturne.info.uqam.ca/~nguyent/)

Friday, July 23, 2010

Khổng Tử - Nhà Ðại Giáo Dục

Vào thời Xuân-Thu Chiến-Quốc ở bên Trung Hoa, _có vị đại thánh nhân ra đời, tên là Khổng Tử. Ngài suốt đời chu du các nước để tuyên dương học thuyết nhân nghĩa đạo đức, hiếu đễ trung tín, song le không được ai hoan nghinh tiếp nhận, đâu đâu cũng bài xích Ngài cả. Tuy Ngài gặp hoàn cảnh không vừa ý như vậy, nhưng Ngài vẫn không thay đổi tông chỉ giáo dục, Ngài vẫn thủy chung đề xướng chủ nghĩa đại đồng.
Khổng Tử là nhà đại giáo dục. Ngài đề xướng một nền giáo dục bình dân được phổ cập tới tất cả mọi người. Ngài có tinh thần "dạy không hề nhàm chán, học không biết mỏi mệt." Ngài không sáng tác, chỉ chép lại tích cũ người xưa. Ngài tin vào những điều của thánh nhân nói xưa kia, rồi đem ra thực hành. Cuối đời, Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Khổng Tử có ba ngàn học sanh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn.
Phương châm giáo dục của Khổng Tử là lấy con người làm trọng tâm, lấy thân mình làm gương. Môn đệ của Ngài có bốn hạng xuất sắc:
1. Xuất sắc về đức hạnh, có ngài Nhan Hồi và Mẫn Tử Khiêm.
2. Xuất sắc về ngôn ngữ, biện luận có ngài Tử Hạ, và Tể Ngã.
3. Xuất sắc về chính trị, có ngài Tử Lộ, và ngài Nhiễm Hữu.
4. Xuất sắc về văn học, có ngài Tử Hạ và Tử Du.
Khi Ðức Khổng Tử qua đời, Nho-giáo phân làm hai phái. Tăng Tử thì chủ trương truyền Ðạo, và Mạnh Tử đại biểu cho phái này, trở thành phái chính thống. Tử Hạ thì chủ trương truyền Kinh, và ông Tôn Tử là đại biểu của phái này. Phái truyền Kinh thì hưng thịnh vào ba triều đại Hán, Ðường, và Thanh. Phái truyền Ðạo thì hưng thịnh vào ba đời Tống, Nguyên, và Minh.
Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão, đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học, Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học, còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học. Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song le người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học.
Nho giáo thuyết giảng đạo lý làm người, thí dụ như rèn luyện nhân cách cho lương hảo. Ðạo giáo một nửa thì chú trọng rèn luyện nhân cách đạo đức, còn một nửa thì chú trọng đến việc tu hành xuất thế. Do đó các vị đạo sĩ thì chẳng cạo đầu, cạo râu, không khác gì người tại gia cả. Họ chỉ mặc y phục của những vị ẩn sĩ thời cổ xưa. Phật giáo thì phải cạo râu cạo tóc, mặc áo hoại sắc, không chú trọng đến bề ngoài, song le áo cà-sa thì không bao giờ rời thân và phải thể hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tướng. Phật giáo là tu pháp xuất thế, phải chăng là ly khai pháp thế gian, tạo ra một Phật pháp riêng biệt? Không phải đâu. Chỉ cần phải nhận thức pháp thế gian một cách rõ ràng, không bị nó làm mê muội, đó chính là Phật pháp.
Có người chủ trương tam giáo hợp nhất, (tức là Ðạo giáo, Khổng-giáo và Phật giáo hợp thành một), cho nên có câu:
Hồng hoa bạch ngẫu thanh hà diệp,
Tam giáo nguyên lai thị nhất gia.
(Hoa hồng, thân trắng, lá xanh,
Ba tôn giáo ấy vốn chung một nhà.)
Ðó là biểu thị đạo lý vậy. Căn bản của Phật giáo, để phát khởi tâm tín ngưỡng thì chính là Nho giáo, do đó cần phải đọc sách, hiểu rõ nghĩa lý, trước hết phải hiểu thế nào là căn bản làm người, sau đó mới theo Pháp mà tu hành: Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn. Nghĩa là: trở về nguồn thì tánh không hai, nhưng phương tiện thì có nhiều cửa vào. Người học Phật Pháp cần phải thông suốt đạo lý nầy.
(Ngày 25 tháng 9 năm 1983)
http://dharmasite.net 

Friday, July 16, 2010

Thức Ăn Cho Tinh Thần - Tuyên Hóa HT

Bạn Đồng Tham Phải Động Viên Nhau Tu - Tuyên Hóa HT

Tam Tạng Kinh 12 Bộ - Tuyên Hóa HT

Không Tu Giới Định Thì Chẳng Sinh Trí Huệ - Tuyên Hóa HT

Nguy Cơ Của Sự Tiến Bộ Khoa Học Kỹ Thuật - Tuyên Hóa HT

Phiền Não Là Bồ Đề - Tuyên Hóa HT

Phật Tánh Là Gốc Nguồn Của Mọi Chúng Sanh - Tuyên Hóa HT

Bài Trừ Sắc Thái Mê Tín - Tuyên Hóa HT

Quang Âm Thiên Và Khoa Học - Tuyên Hóa HT

Nhận Thức Về Phong Thủy - Tuyên Hóa HT

Nguy Cơ Của Sự Tiến Bộ Khoa Học Kỹ Thuật - Tuyên Hóa HT

Cha Mẹ Là Tấm Gương Cho Con Cái - Tuyên Hóa HT

Lấy Việc Giúp Đời Làm Trách Nhiệm - Tuyên Hóa HT

Di Cư Đến Thế Giới Cực Lạc - Tuyên Hóa HT

Bí Quyết Học Thuộc Lòng Kinh Điển - Tuyên Hóa HT

Nhân Quả Vay Trả - Tuyên Hóa HT

Đừng Ham Thần Thông Dị Đoan - Tuyên Hóa HT

Chín Pháp Giới Chúng Sanh Đều Điên Đảo - Tuyên Hóa HT

Tham Sân Si Tam Độc - Tuyên Hóa HT

Muốn Độ Chúng Sanh Thì Trước Hết Mình Đừng Ăn Thịt - Tuyên Hóa HT

Ăn Thịt Tức Là Ăn Người - Tuyên Hóa HT

Vận Mạng Nằm Trong Tay Chúng Ta - Tuyên Hóa HT

Pháp sư Tuyên Hóa, một Thiền Sư Trung Hoa thời hiện đại

Pháp sư được xem là nhà truyền bá Phật giáo Trung Hoa thành công nhất trên đất Mỹ ở cuối thế kỷ XX này.
Thân thế và dòng họ:
Pháp sư thế danh là Bạch Ngọc Thư , Pháp danh An Từ, tự Độ Luân, Pháp hiệu Tuyên Hóa. Ngài sinh ngày 26/04/1918 (nhằm ngày thứ sáu, 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ) tại làng Kiết Lâm, Mãn châu thuộc vùng Đông Bắc, Trung Hoa, trong một gia đình có tám người con. Thân phụ là cụ ông Phú Hải và mẹ là người họ Hồ.
Ngài là người con út trong một gia đình có truyền thống kính tín Tam Bảo. Mẹ của ngài ăn chay trường và tu theo pháp môn niệm Phật. Trước khi sanh ngài bà có một giấc mơ kỳ lạ. Một đêm nọ, bà thấy một luồng hào quang của Đức Phật A Di Đà chiếu sáng khắp mọi nơi và làm chấn động đất trời. Giật mình dậy bà ngửi thấy mùi thơm kỳ diệu lan tỏa khắp trong phòng. Không lâu sau đó bà đã hạ sanh ngài.

Monday, July 12, 2010

Sunday, July 11, 2010

HT Tuyên Hóa Khai Thị 1 - Đĩa CD 4

HT Tuyên Hóa Khai Thị 1 - Đĩa CD 3

HT Tuyên Hóa Khai Thị 1 - Đĩa CD 2

HT Tuyên Hóa Khai Thị 1 - Đĩa CD 1





Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh




Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn - HT Tuyên Hóa






Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - HT Tuyên Hóa



Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 14

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 13

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 12

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 11

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 10

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 9

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 8

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 7


Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 6

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 5

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 4

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 3

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 2

Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan Phần 1