tag:blogger.com,1999:blog-88278161319035127352024-02-02T08:43:56.229-08:00HT Tuyên HóaTuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Âm - Di Sản Và Cuộc Đời HT Tuyên HóaUnknownnoreply@blogger.comBlogger65125tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-7045954026413602142015-09-11T22:39:00.000-07:002015-09-11T22:43:36.347-07:00Pháp Hội Tiêu Tai Hộ Quốc Tại Đài Loan (1988)Lần Hoằng Pháp trong Pháp hội Hộ Quốc Tức Tai Quán Âm Đại Bi tại Đài Loan do Tuyên Hóa Thượng Nhơn Chủ Trì vào năm 1988.<br />
<br />
<br />
Toàn bộ Danh Sách :<br />
<iframe allowfullscreen="" frameborder="0" height="400" src="https://www.youtube.com/embed/tJkbJdMvLt8?list=PL_9nwVi5_C0_qA54aph2UpTLz_0bCE1gb" width="600"></iframe>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-39030841530821457302013-05-05T06:03:00.003-07:002013-05-05T06:03:56.427-07:00Công Án - Xuống Nước Không Chìm, Vào Lửa Không Cháy<span style="font-family: Tahoma;">Thuở trước, có một Đạo-sĩ nọ chuyên tu luyện công phu “xuất huyền nhập
tẫn.” Công phu “xuất huyền nhập tẫn” là gì? Người luyện được công phu
này thì có thể khiến cho một hình nhân nho nhỏ xuất ra từ đỉnh đầu của
mình để đi đây đi đó, và rồi vẫn có thể trở về nhập vào xác thân lại như
cũ. Hình nhân xuất ra gọi là “xuất huyền,” trở về lại với nhục thân gọi
là “nhập tẫn.”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Đạo-sĩ “xuất huyền nhập tẫn” này thường đi khắp nơi để tham vấn, học
hỏi. Một hôm, ông đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ, trong chùa chỉ có một
thầy Tỳ-kheo già và một chú Sa-di còn nhỏ tuổi ở đó tu hành. Bấy giờ
trời cũng vừa sập tối, ông bèn vào chùa xin tá túc qua đêm. </span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Đến khuya hôm ấy, vị Đạo-sĩ ngồi tĩnh tọa, dùng công phu “xuất huyền” mà
xuất ra ngoài dạo chơi. Ông tới thăm Nhật Bản, rồi sang Đức, sang Úc...
Tuy những nơi đó toàn là người ngoại quốc và ông cũng chẳng hiểu được
ngôn ngữ của họ, song ông vẫn muốn viếng thăm các danh lam thắng cảnh
cho thỏa lòng hiếu kỳ. Ông cứ thong thả dạo khắp đó đây, ung dung chiêm
ngưỡng các kỳ quan của thế giới. Rất có thể là ông cũng có đến Hoa Kỳ và
ngắm nghía cầu Kim Môn (Golden Gate Bridge): “Ồ! Cầu Kim Môn có kiến
trúc đẹp thật, quả là một công trình vĩ đại!”; rồi mải mê nhìn ngắm đến
quên mất chuyện trở về. </span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Sáng sớm hôm sau, lúc ăn điểm tâm, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: “Con
hãy vào mời ông khách ngủ trọ hôm qua ra dùng điểm tâm!” </span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Chú Sa-di đến phòng dành cho vị Đạo-sĩ thì thấy ông đang ngồi yên... bất
động: “Ồ! Ông ấy ngồi mà viên tịch rồi!” Thế là chú hớt hãi chạy đi báo
cho vị Tỳ-kheo hay: “Sư-phụ ơi! Ông khách xin tá túc tối qua đã viên
tịch rồi!” </span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Tỳ-kheo vội vã vào xem thì thấy quả thật vị Đạo-sĩ đã chết rồi. Thật
ra, đó là vì trong khi “xuất huyền” thì nhục thân của ông Đạo-sĩ nọ
không còn hô hấp, mà tim mạch cũng ngừng đập, nên tình trạng lúc ấy
trông chẳng khác gì một xác chết vậy. <br />
Vị Tỳ-kheo già bảo: “Ồ! Ông ấy chết thật rồi! Thôi thì chúng ta hãy làm
lễ hỏa táng cho ông ấy vậy.” Và chẳng mấy chốc thì nhục thân của vị
Đạo-sĩ đã trở thành một đống tro tàn!<br />
Bấy giờ, vị Đạo-sĩ sau khi “xuất huyền”ø đi du ngoạn thỏa thích rồi (mà
không tốn tiền mua vé máy bay!), bèn tính chuyện trở về để “nhập tẫn.”
Trở về, mới hay nhục thân của mình không còn ở chỗ cũ nữa, ông hốt hoảng
lùng kiếm khắp nơi song vẫn không tìm ra. Thế là tối đến, ông liền tới
ngôi chùa nhỏ nọ quát hỏi om sòm: “Các người đem cái “nhà” của ta đi đâu?
Hãy trả “nhà” lại cho ta!” (“nhà” là ám chỉ nhục thân của ông.)</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di nghe thấy thì kinh ngạc nhìn nhau: “Ai thế?
Ai nói gì đấy?” Bởi vì tuy cũng là người tu hành, song họ chưa có được
Ngũ Nhãn, Lục Thông; bằng không, họ có thể nhìn thấy và biết rằng vị
khách hôm nọ đã trở về. Chính vì chỉ nghe có tiếng nói chứ không thấy
dáng người nên cả hai thầy trò đều cho rằng đó là ma quỷ đến quấy phá:
“Ồ, đó hẳn là hồn ma của ông khách hôm nọ trở về đòi nhà chứ gì?!”<br />
Hôm đầu tiên thì đêm đến “hồn ma” của vị Đạo-sĩ mới tới chùa để đòi nhà,
nhưng qua hôm sau thì trời vừa nhá nhem tối là ông đã đến rồi. Và kể từ
đó, hôm nào ông cũng đến, có lúc ngay cả giữa ban ngày mà ông cũng đến
kêu réo đòi nhà. Trong khoảng hơn một tháng, ngày nào ông cũng đến chùa
nằng nặc đòi nhà như thế, khiến cho lão Tỳ-kheo và chú Sa-di sanh lòng
sợ hãi: “Chậc, trong chùa có ma thật rồi! Thế này thì e rằng chúng ta
phải lánh đi nơi khác mà thôi; không thể nào ở đây được nữa!” Thế là họ
quyết định bỏ chùa mà đi.<br />
Chiều hôm đó, hai thầy trò đang chuẩn bị để ngày mai dọn đi, thì có một
nhà Sư đến xin tá túc. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: “Con hãy
thưa với ông ấy rằng chúng ta hiện nay không cho khách ngủ trọ nữa! Lần
trước đã xảy ra chuyện rắc rối quá rồi!”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Chú Sa-di thưa lại với vị Sư mới đến: “Xin Thầy hãy đến nơi khác tá túc.
Chùa chúng con hiện nay không cho ngủ trọ nữa ạ.”<br />
Vị Sư nọ gạn hỏi: “Nhà chùa hiện nay không cho ngủ trọ nữa ư? Như thế có
nghĩa là trước kia thì chùa vẫn cho khách ngủ trọ! Vậy thì tại sao bây
giờ lại không cho nữa? Chú có thể cho ta biết nguyên do chăng?”<br />
Chú Sa-di bèn kể lể sự tình: “Bởi vì trước kia có một ông khách xin tá
túc và rồi viên tịch tại đây. Chúng con đã hỏa thiêu nhục thân của ông
ấy, bây giờ ngày nào hồn ma của ông ấy cũng đến đòi nhà. Cho nên nay nhà
chùa không dám cho khách ngủ trọ nữa; vả lại, chùa chúng con cũng sắp
dọn đi nơi khác rồi.”<br />
Vị Sư nọ gật gù: “Ồ, thì ra là như thế! Không sao, ta có thể trị được ma
quỷ. Ta có cách khiến cho con ma đó phải chịu đầu hàng, tòng phục.”<br />
Nghe vị Sư nói như thế thì chú Sa-di mừng rỡ reo lên: “Thế thì để con
vào thưa lại với Sư-phụ, xem Sư-phụ định liệu ra sao!” Nói dứt lời, chú
hớn hở chạy về liêu phòng bạch cùng vị Tỳ-kheo: “Bạch Sư-phụ! Ông Sư mới
đến ấy bảo rằng có thể trị được ma quỷ. Ông ấy muốn ngủ trọ một đêm,
chẳng hay Sư-phụ có bằng lòng chăng?”<br />
Vị Tỳ-kheo đáp với vẻ đắn đo: “Ậy! Ông ta nói trị được ma quỷ là nói gạt
con đấy! Chúng ta là người xuất gia mà đều không trị được ma quỷ, ông ấy
cũng như chúng ta thôi, thì làm sao mà trị được chúng? Mà thôi, bất luận
có trị được hay không thì chúng ta cũng cứ để cho ông ấy tá túc một đêm
rồi hẵng hay!” Chủ ý của vị Tỳ-kheo là cứ thử xem sao—vị Sư nọ nếu trị
được con ma này thì tốt, mà dẫu không trị nổi nó thì cũng không sao,
đằng nào ông ta cũng chỉ ở nhờ có một đêm! Và thế là vị Sư nọ được mời ở
lại chùa.<br />
Bấy giờ, vị Sư nọ hỏi hai thầy trò: “Chẳng hay ông khách nọ chết ở phòng
nào? Bây giờ ông ta đòi trả nhà, thế thì ông ta ở đâu chui ra mà đòi nhà?”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Tỳ-kheo đáp: “Ông ấy ở tại liêu phòng phía tây. Ông ấy đến hôm trước
thì hôm sau viên tịch; và cũng từ đó bắt đầu có ma quỷ đến đòi nhà. Hễ
mặt trời vừa lặn là ông ấy lại đến; theo Thầy thì chúng ta phải làm gì
bây giờ?”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Sư nói: “Dễ thôi! Xin Sư-phụ hãy chuẩn bị cho tôi một chậu nước thật
lớn, đồng thời đốt một đống lửa trong phòng của tôi. Sư-phụ hãy làm theo
lời tôi dặn đi, rồi đâu sẽ vào đấy thôi!”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Tối hôm đó, quả nhiên có tiếng kêu réo: “Bớ các người, các người đem cái
nhà của ta đi đâu? Hãy trả nhà lại cho ta, mau lên!”<br />
Khi ấy, nhà Sư biết trị quỷ mới cất tiếng hỏi: “Nhà của ông ư? Nhà của
ông ở trong chậu nước ấy, ông vào trong đó mà tìm!” Thế là vị Đạo-sĩ
liền nhảy vào chậu nước, loay hoay tìm kiếm, rồi nói: “Không có!”</span><br />
<span style="font-family: Tahoma;"><br />
Vị Sư nọ điềm nhiên hỏi lại: “Không có à? Thế thì phải ở trong đống lửa
đằng kia đấy thôi, ông mau đến đó tìm thử xem!” Ông Đạo-sĩ lại nhảy vào
đống lửa, chạy vô chạy ra sục sạo một lúc lâu, rồi thất vọng la lên:
“Cũng không có! Nhà của ta không có trong đống lửa này!”<br />
Bấy giờ vị Sư mới chậm rãi hỏi: <b>“Này ‘ông Thượng Tọa’! Ông bây giờ xuống
nước không chìm, vào lửa không cháy; thế thì ông còn tìm ‘nhà’ để làm gì
nữa?!”</b> Nghe nói như thế, vị Đạo-sĩ chợt khai ngộ: <b>“Ừ nhỉ!”</b> Và từ đó,
ngôi chùa nhỏ được yên ổn, không bị ma quỷ quấy rầy nữa, và vị Tỳ-kheo
già cùng chú Sa-di cũng không phải dọn đi nơi khác.</span><br />
<br />
<span style="font-family: Tahoma;">Nguồn : Dharmasite.Net </span>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-5695331084096647422012-02-15T00:28:00.000-08:002012-02-15T00:29:53.853-08:00Si Ái Triền Miên<table align="center" cellpadding="0" cellspacing="0" class="tr-caption-container" style="margin-left: auto; margin-right: auto; text-align: center;"><tbody>
<tr><td style="text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi36E408BsuTBPKSsVtyR3u9zseTFTVylnU9yPUOoQqMDoqBEiPKvJlcJRIeAif9m18R0pTqh1jDIzg_6e5FXIuRh9Snh79UPeai60kIgaCQadq1taREH6lHRkdN7sM8f2qReyBHwbNUYJH/s1600/haigoccay_a_small.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: auto; margin-right: auto;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi36E408BsuTBPKSsVtyR3u9zseTFTVylnU9yPUOoQqMDoqBEiPKvJlcJRIeAif9m18R0pTqh1jDIzg_6e5FXIuRh9Snh79UPeai60kIgaCQadq1taREH6lHRkdN7sM8f2qReyBHwbNUYJH/s640/haigoccay_a_small.JPG" width="450" /></a></td></tr>
<tr><td class="tr-caption" style="text-align: center;"><span style="color: red; font-family: Tahoma; font-size: x-small;">Hai gốc cậy hiện được lưu giữ tại Vô Ngôn Đường VPTT</span></td></tr>
</tbody></table><b><span style="color: green; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tình Ái và Dục Vọng là Tảng Ðá Buộc Chân Người Tu Ðạo</span></b> <br />
<div align="justify" style="color: red;"><span style="font-size: small;"><b><span style="font-family: Tahoma;">Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào.</span></b></span></div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo. Là người tu Ðạo, bất luận đối với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình không phát triển được. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi biển lớn sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ cần "đoạn dục khử ái," nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Người tu Ðạo đừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục, càng không nên có hành vi yêu đương. Ðối với bất cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương; hễ có lòng yêu đương thì gốc khổ không thể tránh được; vì có lòng yêu đương thì khó thoát vòng sinh tử.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Có người nói: "Con người là động vật có tình cảm, chuyện ăn uống và dâm dục là việc tự nhiên." Chính bởi vì nhân duyên đó, nên cần phải tu Ðạo. Trong Kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Mình xem những người già như mẹ mình, những người lớn tuổi như chị, những cô trẻ là em và những đứa nhỏ là con. Hãy Sinh ra lòng độ thoát họ và diệt trừ những niệm ác.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Là kẻ tu đạo mình phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nếu quả không có ái, phải chăng khi gặp người khác mình cứ ngậm miệng chẳng để ý đến họ? Không đúng! Mình không chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đương, nhưng không sinh ra lòng ruồng ghét kẻ khác, cũng không thể nói rằng: "Bởi vì tôi không thương người ta nên tôi phải ghét họ." Ðó là điều sai lầm. Như vậy thì thế nào là đúng? Tức là không thương mà cũng chẳng ghét ai. Không thương, không ghét chính là Trung-đạo.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tu hành là tu cái gì? Chính là tu pháp Trung-đạo. Ðối đãi với người mình luôn luôn bình đẳng, dùng tâm từ bi; nhưng phải luôn cẩn thận, chớ để rớt vào cạm bẫy ái tình.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Quý-vị nên chú ý! Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nếu có người gởi cho quý-vị phong thơ tình, quý-vị cảm thấy lòng mình vui mừng, giống như có con thỏ nhảy nhót, con tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là chuyện tốt. Sự thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đọa lạc mà thôi.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Quý-vị thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công phu, phải thật sự hiểu rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô cùng." Từ vô lượng kiếp tới nay, sở dĩ sanh tử không thể chấm dứt được là vì sao? Chính là bị hai chữ "ái tình" làm hại. Nếu như mình có thể "đoạn dục khử ái" thì mới có thể siêu thoát Tam-giới, không còn sanh tử nữa.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Thứ mình thích thì mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi thích, tức là mình đã sinh lòng yêu thương. Hễ khi ghét lòng mình sinh ra sự ghét hận. Cả hai thứ, yêu, ghét đều là do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc không dựa vào tình cảm. Tuy nhiên cũng không thể giống như ông Quan Công, ngồi chễm chệ trên bàn xử lý, người ta đảnh lễ, ông cũng không thèm nhìn tới. Ðối với người, mình phải có sự hòa nhã, lễ độ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi thường kẻ khác.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tóm lại, đối với người khác mình phải có lòng từ bi, tìm phương tiện giúp đỡ họ. Lúc nào cũng nên nghĩ đến người khác và khiến họ sinh lòng hoan hỉ. Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô cùng trọng yếu.</span><br />
<br />
<div style="text-align: center;"><b>Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm.</b></div><div style="text-align: center;"><b><br />
</b></div><div style="text-align: center;"><b>Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh.</b></div></div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Quý-vị xem gốc cây nầy gồm có hai nhánh, song đôi hợp thành một, nhánh trên nhánh dưới kết hợp với nhau, quý-vị biết đó là gì không? Ðây là do vô lượng kiếp về trước có một đôi nam nữ thương yêu nhau rất sâu đậm. Hai người đó phát nguyện rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện vị liên lý chi." Nghĩa là nếu sinh lên trời thì làm đôi uyên ương hai cánh liền nhau, nếu sinh dưới đất thì nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy rất chung tình, nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích giống nhau, đó là: ham tiền. Người đàn ông thì thí mạng để kiếm tiền, người đàn bà thì thích phung phí tiền, cho nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau quá đậm đà nên tạo ra tội nghiệp cũng hết sức sâu dầy. Ðời đời kiếp kiếp sinh ra trầm luân, đọa lạc vào đường súc sanh, trở thành ngạ quỷ, cuối cùng đọa địa ngục. Ðến nay đôi vợ chồng nầy biến thành thảo mộc. Gốc cây nầy đáng lẽ gồm có hai nhánh, nhưng nó lại sinh trưởng cùng một chỗ, nên mãi mãi ràng buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh bên trái bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũng nhào sang ôm lấy nhánh bên trái, giống như đàn ông đàn bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy rằng đôi nam nữ nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đậm. Ngày nay chúng thành loại thảo mộc mà cũng không bỏ được lòng si ái đó. Ở giữa hai gốc nầy có một cục đá, mà hai người nầy quý như châu báu. Cục đá đó là gì? Nguyên lai nó là trương mục ngân hàng của hai vị đó trong tiền kiếp.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Mấy năm trước có lần chúng tôi vào thành thuyết Pháp. Khi đi ngang qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền nhặt đem về. Quý-vị nhìn xem: đầu gốc cây nầy bị chặt đứt, rễ cũng bị chặt mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song hai nhánh cây nầy vẫn triền miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không thấy đó đáng thương xót sao?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Như vậy đủ thấy rằng tình yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi không thể tin được, bởi vì nó không có chứng minh, không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao thôi." Tin hay không là do quý-vị, tôi không có cách nào làm quý-vị tin được bởi vì đây là Pháp rất khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đi nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tục ngữ Trung Hoa có câu rằng: "Khi tay đã cầm cây củi khô rồi, thì y khó chịu bỏ ra để đổi lấy cành hoa." Ðó là muốn ví dụ những người luôn luôn chấp trước vào tình yêu. Nếu mình nói với họ rằng, hãy bỏ đi những thứ luyến ái đó để tu Ðạo là điều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không muốn quay đầu lại. Rằng:</span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0; margin-top: 0;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;"><i>Thiên vũ tuy khoan, nan nhuận vô căn chi thảo.</i></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0; margin-top: 0;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;"><i>Phật môn tuy quảng, nan độ bất tín chi nhân.</i></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Nghĩa là:</span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0; margin-top: 0;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Trời mưa rưới nước khắp nơi, song khó tươi nhuận cây cỏ không gốc.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0; margin-top: 0;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Cửa Phật tuy rộng thênh thang, mà vẫn khó độ kẻ chẳng lòng tin.</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời điểm chín mùi rồi tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa xôi đến đây để triều bái, tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho đến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho quý-vị nghe.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Giảng tối ngày 12 tháng 11, năm 1982</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">tại Vạn Phật Thánh Thành</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;"> http://www.dharmasite.net/KhaiThiveAiDuc.htm</span></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-64098074520171274982012-01-31T19:54:00.000-08:002012-01-31T19:58:16.002-08:00Chú Lăng Nghiêm hàng phục thiên ma<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhysLfZnOlnChFyB_wlFa__LQ1S8eTcsmCecjdZF2YpZCk5oeRlLAeQSttjxvc-QL2teBOg_intoNvKT5kg370LM8G9q9Jg9w9JkyyuV5UaSmXEvhjVbiajJiGVr9miFlXu4C01YiS9v0M3/s1600/Lang_Nghiemm_Tam_Chu.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="360" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhysLfZnOlnChFyB_wlFa__LQ1S8eTcsmCecjdZF2YpZCk5oeRlLAeQSttjxvc-QL2teBOg_intoNvKT5kg370LM8G9q9Jg9w9JkyyuV5UaSmXEvhjVbiajJiGVr9miFlXu4C01YiS9v0M3/s640/Lang_Nghiemm_Tam_Chu.png" width="640" /></a></div><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;">Khi tôi (H.T Tuyên Hoá) còn ở tại quê hương đông bắc Trung Quốc, thường có một nhóm người đệ tử quy y, theo tôi đi khắp nơi hoằng dương Phật pháp, giáo hoá người có duyên. Trong những đệ tử đó, có người lúc nào cũng xuất thần nhập hoá, không bị giới hạn. Chẳng giống như người tu hành Đạo Giáo, trước hết phải ngồi ở đó, rồi mới có thể xuất thần nhập hoá. Trong nhóm đệ tử, có người đệ tử rất trẻ tuổi ham chơi. Cậu ta có thể hoá thân bay lên trời, đi vào đất. <br />
<wbr></wbr><br />
<wbr></wbr>Một lần nọ, gặp thiên ma ở trên trời, thiên ma rủ cậu ta lên thiên cung ma dạo chơi xem cho biết. Cậu ta bị tâm háo kỳ sai khiến, bèn theo thiên ma đi, ai ngờ bị thiên mà trói nhốt lại, cậu ta chẳng làm gì được. </span></span> <br />
<div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;"><br />
<wbr></wbr>Lúc đó, cậu ta sinh tâm sợ hãi, bèn đến nói với tôi : « Sư phụ ơi ! Con bị thiên ma trói nhốt lại ở trong cung điện của chúng, không cho con trở về ». </span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;"><br />
<wbr></wbr>Tôi nói với cậu ta : « Con có muốn ở lại đó chăng ?»</span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;"><br />
<wbr></wbr>Cậu ta nói : « Con không muốn ở lại đây ».</span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;"><br />
<wbr></wbr>Tôi nói : « Nếu con không muốn, thì ta sẽ đưa con trở về đây ».</span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: 14pt;"><span style="font-size: medium;"><br />
<wbr></wbr>Lúc đó, tôi bèn dùng Chú Lăng Nghiêm phá lưới ma la, hàng phục được pháp thuật của ma, đập tan cung điện của ma, đưa cậu ta bình an trở về ». <br />
<wbr></wbr><br />
<wbr></wbr>Lần đó dạy dỗ rồi, cậu ta không dám đi lên trời chơi nữa, từ đó giữ gìn quy cụ tu đạo. Do đó có thể thấy, nếu người tu đạo không cẩn thận, lập tức gặp sự nguy hiểm.</span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: medium;"><span style="font-size: 14pt;"><br />
<wbr></wbr>Tại sao thiên ma nhốt cậu ta lại ở trong cung điện ma ? Vì cậu đệ tử này có thần thông, thiên ma muốn cậu ta biến thành quyến thuộc của ma vương, có thể tăng thêm thế lực của chúng. Ma vương quỷ kế đa đoan, dùng trăm phương ngàn kế, muốn bắt người tu đạo, để làm quyến thuộc của chúng. Cho nên người tu hành phải cẩn thận, tu hành chân chánh thì mới phá được pháp thuật của ma.</span></span><br />
<span style="font-size: medium;"><span style="font-size: 14pt;">Nguồn : http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/Chuyen-Ngan/Chu-Lang-Nghiem-Hang-Phuc-Thien-Ma/ </span></span></div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><br />
</div><div class="MsoNormal" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: justify; text-indent: 35.4pt;"><span style="font-size: medium;"><span style="font-size: 14pt;"> </span></span></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-26285412205313816592012-01-31T19:39:00.000-08:002012-01-31T19:39:02.679-08:00Như Ý ma nữ<span style="color: black;"><span style="font-size: medium;">Hoà Thượng Tuyên Hoá</span></span> <br />
<div style="text-align: justify;"><span style="color: black;"><span style="font-size: medium;">Hôm nay tôi nhớ ra chuyện Như Ý Ma Nữ. Y là một con quỷ vào đời nhà Chu bị sét đánh và y lại tu thành một thứ ma thuật, sấm sét cũng chẳng cách chi đánh được y, cho nên y đi khắp nơi để tác quái, sau đó thì gặp tôi, y phải quy y Tam Bảo, bây giờ y đã cải tà quy chánh, các bạn đừng sợ y, dù y có đến đây cũng chẳng hại người.<br />
<br />
<wbr></wbr>Cách đây khoảng 27 năm về trước, vào ngày 20 tháng 2 năm 1945, tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc (Manchuria), tại gia đình ông Châu. Ở khu này có "Hội Đạo Đức". Hội Đạo Đức là nơi giảng về đạo đức vào mỗi ngày. Trong hội nầy có mấy đệ tử quy y với tôi, cho nên mỗi lần đi qua đó, tôi đều ở lại đó vài hôm.</span></span></div><a name='more'></a><span style="font-size: medium;"><br />
<br />
<wbr></wbr>Ở được vài ngày thì gặp ông bói tướng "phê bát tự" mà tôi chẳng biết tên ông ta. Sao gọi là phê bát tự ? Tức là năm hai chữ, tháng hai chữ, ngày hai chữ và giờ hai chữ. Ông ta dùng "phê bát tự" xem cho người linh vô cùng, ông ta xem cho tôi nói :"Số của Thầy là làm quan, sao lại đi tu ? Nếu Thầy làm quan thì sẽ làm quan lớn" ; tôi nói :"Tôi không có ý định làm quan, cũng chẳng biết làm quan ra sao ? Sao lại có thể làm ? Tôi biết làm người xuất gia, cho nên hiện tại tôi là người xuất gia". Ông ta nói thật đáng tiếc. Sau đó ông ta lại xem tay tôi, ông ta nói :" Bàn tay của Thầy, ít nhất Thầy có thể đỗ đứng đầu trạng nguyên". Tôi lại nói :"Hiện tại tôi đứng chót cũng không có làm gì có đứng đầu ?" Sau đó ông ta nói :"Năm nay Thầy gặp rất nhiều may mắn ! Sẽ gặp việc cát tường!" Tôi nói :"Có việc gì cát tường ?". Ông ta nói : "Qua ngày 10 tháng sau thì Thầy sẽ khác với hiện tại". Tôi nói :"Khác nhau như thế nào ?". Ông ta nói :"Bây giờ nội trong một ngàn dặm, có rất nhiều người tin Thầy, qua khỏi ngày 10 tháng sau thì mọi người ngoài mười ngàn dặm đều tin Thầy". Tôi nói :"Sao lại như thế ?". Ông ta nói :"Đến lúc đó Thầy sẽ hay !".<br />
<br />
<wbr></wbr>Qua hai ngày sau, lúc đó khoảng ngày 14 tháng 2 tôi đến làng Tương Bạch Kỳ Tứ Đồn ở với đệ tử của tôi tên là Hạ Tôn Tường tuổi đã hơn sáu mươi. Trong nhà của ông ta có hơn ba mươi người, làm rất nhiều ruộng đất, có thể nói là tài chủ giàu nhất trong làng. Nhưng ông ta chưa bao giờ tin Phật, cũng chẳng tin gì hết, song le khi ông ta thấy tôi đến thì ông ta tin và quy y Tam Bảo. Không riêng gì mình ông ta quy y mà toàn gia đình đều muốn quy y, cho nên toàn gia đình của ông ta đều quy y. Về sau mỗi lần đi qua đây tôi đều đến ở nhà của ông ta. Nhà của ông ta hơn ba mươi người rất vui vẻ khi gặp tôi, tôi đã ở lại khoảng mười ngày thì có khoảng bảy mươi hai người cũng đến quy y.<br />
Vào ngày 25 tôi ngồi xe của Hạ Tôn Tường về huyện Song Thành xa cách chừng hơn bảy mươi dặm đường, chúng tôi phải khởi hành lúc ba giờ sáng sớm.<br />
<br />
<wbr></wbr>Thời tiết lúc đó gần mùa xuân, nhưng lạnh không thể tả. Người lái xe và những người đi theo đều mặc quần áo bằng da và mang giầy da, còn tôi lúc đó quá nghèo, đồ mặc chỉ ba lớp vải thô, còn quần thì chỉ hai lớp vải, giầy thì mang giầy la hán ( kiểu giầy sandale) chẳng có tất mang, còn mũ thì giống như hai bàn tay chắp lại, phủ chẳng tới tai, giống như kiểu mũ của Ngài Tế Công đội mà các bạn thấy.<br />
Chúng tôi khởi hành từ ba giờ sáng cho đến bảy giờ mới tới. Đến thành rồi trời cũng đã sáng, tài xế và những người đi tháp tùng tưởng tôi đã chết vì rét lạnh, bởi vì tôi mặc đồ không đủ che lạnh. Họ dừng xe lại để hoạt động, họ chạy bộ, vì không chạy thì bị tê cóng chịu không thấu, còn tôi vẫn ở trên xe từ khi bắt đầu khởi hành. Khi đến cửa đông của huyện Song Thành thì xe ngừng lại, tôi xuống xe thì anh tài xế nói :" Chúng con tưởng Thầy đã chết vì lạnh rồi".<br />
<br />
<wbr></wbr>Tôi ở với các bạn bè và các vị hộ pháp cư sĩ khoảng hơn mười ngày. Vào ngày 9 tháng 3 tôi trở về làng Tương Bạch Kỳ Tứ Đồn nhà của Hạ Tôn Tường. Khi tôi về tới thì ông ta nói có đứa con gái của Hạ Văn Sơn vừa mới quy y với tôi bị bệnh, bệnh rất trầm trọng, sáu, bảy ngày rồi chẳng ăn uống gì, cũng chẳng nói năng gì, mà rất là giận dữ, hung hăng như muốn đánh người. Mẹ của cô ta nói với tôi : "Sư phụ ! Con gái của con đây vừa mới quy y chưa được mấy ngày thì bị bệnh. Chứng bệnh rất là trầm trọng, cô ta chẳng ăn uống gì, cũng chẳng nói năng gì, suốt ngày đều trợn mắt, chổng đầu xuống giường, chẳng biết là bệnh gì ?".<br />
<br />
<wbr></wbr>Tôi nói với bà ta :"Tôi cũng không thể chữa bệnh cho người, cô ta bệnh gì, hỏi tôi cũng vô dụng. Hiện tại có đứa đệ tử quy y với tôi tên là Hàn Cương Cát, anh ta là người đã khai mở ngũ nhãn, biết được chuyện quá khứ, vị lai của người. Bà có thể đi hỏi anh ta".<br />
Hàn Cương Cát cũng quy y vào ngày 24 tháng 2. Trước khi anh ta quy y, tôi vốn không muốn thâu nhận anh ta. Tại sao ? Vì trước khi tôi xuất gia, tôi với anh ta là đôi bạn thân và cùng làm việc với nhau trong Hội Đạo Đức. Sau khi xuất gia, Hàn Cương Cát khai mở ngũ nhãn, anh ta thấy :"Nguyên lai Thầy đời đời kiếp kiếp là Thầy của con !", cho nên anh ta muốn quy y với tôi.<br />
<br />
<wbr></wbr>- Tôi nói :"Tôi không thể thu anh làm đệ tử, chúng ta vốn đều là bạn thân nhau, sao tôi lại thu nhận anh làm đệ tử ?" <br />
<wbr></wbr>- Anh ta nói :"Nếu Thầy không thu nhận con thì đời này con sẽ đọa lạc". <br />
<wbr></wbr>- Nói xong, anh ta quỳ xuống, nhất định muốn quy y, tôi thì nhất định không thu nhận anh ta.<br />
<br />
<wbr></wbr>Trải qua khoảng hơn nửa giờ, tôi hỏi anh ta :"Ai quy y với tôi đều phải nghe theo sự giáo huấn, bây giờ anh có tài, vừa biết quá khứ, hiện tại và vị lai, có phải vì vậy mà anh có tâm cống cao, không nghe lời dạy của tôi ?" Anh ta nói :"Sư phụ ! Con sẽ nghe lời ! Dù Sư phụ kêu con nhảy vào dầu sôi lửa bỏng con cũng vào, kêu con đi trên lửa, con cũng đi, dù có chết con cũng không từ !". Tôi nói :"Thật chăng ? Tương lai có việc có thể nào tôi kêu anh làm mà anh không làm ?" Anh ta nói :"Bất cứ chuyện gì Sư phụ kêu con đi làm thì con nhất định đi làm, dù nguy hiểm con cũng không sợ". Hàn Cương Cát là một trong bảy mươi hai người quy y vào ngày 24 tháng 2.<br />
<br />
<wbr></wbr>Nghe đệ tử bị bệnh, tôi kêu anh ta nói :"Con biết khám bệnh cho người, bây giờ vị đệ tử này bị bệnh, con lại xem thử đi !". Anh ta ngồi thiền, quán tưởng xem bệnh tình ra sao, đột nhiên mặt của anh ta tái vì sợ hãi, anh ta nói với tôi :"Sư phụ ! Không xong rồi, việc này lo chẳng xong ! Bằng mọi cách con cũng lo không được !". Tôi nói :"Thế nào ?" Anh ta nói :"Đây là một con quỷ ! Con quỷ này rất là lợi hại, y biến hóa ra hình người ! Biến được hình người để hại người làm đảo loạn thế giới !". Tôi nói :"Sao mà lợi hại như thế, nói nghe coi". Anh ta nói :"Con quỷ này là một con quỷ vào đời nhà Chu. Vào thời nhà Chu, y là một con quỷ, vì y không giữ quy cụ, bị một người có đạo hạnh, có thần thông dùng sấm sét bửa vụn ra, nhưng linh tính của y chưa tán ra hoàn toàn, cho nên về sau y lại tụ về với nhau, lại biến thành quỷ. Con quỷ này bây giờ thần thông lớn vô cùng, biết phi hành biến hóa, lúc hiện có lúc hiện không. Vì bị sét đánh, cho nên sau này y tu luyện một thứ pháp thuật. Pháp thuật này chống lại sấm sét. Pháp thuật này luyện bằng cách nào ? Tức là y dùng cái mũ đen được làm bằng lớp màng mỏng bao bọc đứa bé khi mới sinh ra. Lớp màng mỏng bao bọc đứa bé, y dùng nó làm thành cái mũ màu đen, khi đội mũ lên đầu thì sấm sét không làm gì được y vì sấm sét kỵ vật ô uế.<br />
Người tây phương cho rằng sấm sét chẳng có ai cai quản. Sấm sét thường thì chẳng ai cai quản, nhưng có thứ sấm sét đặc biệt thì có khi dùng sấm sét để trừng phạt yêu ma quỷ quái ở thế gian. Y đã luyện thành cái mũ đen tị lôi, sấm sét chẳng làm gì được y thị. Y lại luyện thành hai thứ pháp thuật tức là hai quả banh nhỏ tròn tròn. Y dùng cái mũ đội lên cho ai thì linh hồn của người đó bị y nắm giữ, sẽ biến thành quyến thuộc của y. Còn hai quả banh tròn, nếu ném trúng ai thì người đó sẽ chết tức khắc. <br />
<br />
<wbr></wbr>Cho nên Hàn Cương Cát thấy ma quỷ lợi hại như vậy thì nói với tôi :"Sư phụ ! Việc này không xong rồi !" Tôi nói :"Bệnh tình thế nào ?" Anh ta nói :"Bệnh này nhất định phải chết ! Chẳng có cách nào trị được !" Tôi nói : "Chết à ? Không thể được ! Nếu cô ta không quy y với tôi thì đương nhiên tôi không lo. Cô ta vừa quy y với tôi vào ngày 24 tháng 2, chưa được bao lâu". Lúc đó khi quy y, tôi bảo họ niệm "Chú Đại Bi", tôi nói :"Các vị mỗi người nên học "Chú Đại Bi", tương lai sẽ hữu dụng. Khi gặp nguy hiểm gì thì hãy niệm "Chú Đại Bi", thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ các vị". Do đó, có rất nhiều người niệm "Chú Đại Bi". Tôi nói :"Nếu cô ta không quy y với tôi thì ma quỷ làm gì cô ta mặc kệ, nhưng cô ta đã quy y với tôi, thì tôi không thể để cho ma quỷ cướp mạng của cô ta, tôi nhất định phải lo". Anh ta nói :"Sư phụ, nếu Thầy lo cho cô ta, thì con chẳng đi ! Con không thể theo Thầy đi".<br />
<br />
Tôi nói :"Cái gì ? Khi con quy y thì con nói :"nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không từ", bây giờ đâu phải là dầu sôi lửa bỏng, tại sao con từ chối ?". Anh ta không nói gì, bèn suy nghĩ rồi nói :"Sư phụ ! Thầy phải phái mấy vị hộ pháp bảo vệ con". Tôi nói :"Con đừng la lối ! Đi thì đi còn la lối cái gì ?" Anh ta nghe lời, cũng không dám la lối, bèn theo tôi đi, đến chỗ bệnh nhân thì cô ta nằm ở trên giường, đầu ở trên gối còn đít thì chổng lên trời, trông rất khó coi, song le rất hung hăng, mắt trợn lên lớn giống như mắt bò, nhất là khi nhìn thấy tôi thì càng giận dữ.<br />
<br />
Tôi hỏi người nhà của cô ta về nguyên nhân của chứng bệnh. Họ nói bảy, tám ngày trước đây có một thiếu phụ khoảng năm mươi tuổi ngồi kế ngôi mộ ở ngoài làng. Thiếu phụ mặc áo dài màu xanh đen, quần và giầy dép đều màu vàng và cô ta khóc lóc bên cạnh ngôi mộ. Nghe tiếng khóc, có bà già họ là Hạ đến an ủi thiếu phụ, nhưng thiếu phụ cứ tiếp tục khóc nói :"Ôi người của tôi, người của tôi...". Một mặt thì khóc, một mặt thì nhìn "người" của cô ta. Bà già vẫn tiếp tục an ủi thiếu phụ, cuối cùng thiếu phụ hết khóc, và hai người đi về cổng làng. Cửa cổng có thần gác cho nên thiếu phụ không dám vào. Chung quanh làng đều có tường bao bọc ba bên bốn phía, mỗi phía đều có cửa ra vào. Bà già Hạ một mình đi vào cổng còn thiếu phụ thì ở bên ngoài khóc.<br />
<br />
Lúc đó xe ngựa của Hạ Tôn Tường trở về làng. Khi đến cổng thì ngựa thấy thiếu phụ bèn kinh hãi chạy xông vào, vì ngựa thấy vật này thì biết ngay ! Còn con người thì không nhận ra. Khi ngựa kinh hãi chạy xông vào thì thiếu phụ cũng chạy theo vào. Có lẽ Thần giữ cổng cũng hoảng hốt khi thấy ngựa kinh hãi cũng không giữ cổng để cho thiếu phụ chạy vào.<br />
<br />
Thiếu phụ chạy vào nhà ông Vưu Trung Bảo và tiếp tục tìm "người" của bà ta. Bà ta nhìn ông Vưu rồi bỏ chạy ra khỏi nhà, có khoảng ba bốn chục người bu chung quanh bà ta hỏi : "Bà tên gì ?" Bà ta nói :"Tôi chẳng có tên", lại hỏi :"Họ của bà là gì ?". Bà ta nói :"Tôi chẳng có họ, tôi là người chết". Họ bu nhìn bà ta giống như một quái vật. Bà ta lấy tay giữ cái mũ đen và bỏ đi, bà ta giống như người chẳng biết gì hết, đi đến bờ tường của nhà ông Hạ Văn Sơn, tường cao khoảng ba thước. Bà ta đến bên tường liệng cái mũ đen qua tường rồi nhảy vọt một cái qua bờ tường. Tường cao như thế có lẽ chẳng có ai nhảy qua được, thế mà bà ta nhảy qua được. Đám đông la lên :"- ! Mụ điên có võ thuật, có công phu !" Do đó cả đám đông chạy qua xem bà ta.<br />
Con trai của Hạ Văn Sơn tên là Hạ Tôn Toàn cũng là đệ tử quy y với tôi vào ngày 24 vừa qua, từ cửa chạy vào nói :"Mẹ ! Mẹ ! Mụ điên đến nhà mình, mẹ đừng có sợ !"<br />
Mẹ của y nhìn ra cửa sổ, chẳng thấy gì lạ. Khi quay đầu lại thì thấy thiếu phụ bò vào giường đá, đang nửa trên nửa dưới. Bà ta hỏi thiếu phụ :"Bà tìm ai ? Bà tìm ai ?" Thiếu phụ chẳng nói gì. Thấy cử chỉ của thiếu phụ rất kỳ quái, cho nên bà ta và cô con gái niệm Chú Đại Bi, vừa mới niệm câu đầu tiên "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da" thì thiếu phụ nằm dài xuống đất bất động, giống như người chết.<br />
<br />
Thấy vậy không được, nếu chết trong nhà thì không tốt. Cho nên đi báo cáo với ông xã trưởng. Xã trưởng thấy thiếu phụ nằm dài dưới đất giống như chết bèn dùng tay mang bà ta ra ngoài sân, hỏi bà ta :"Bà từ đâu đến đây ? Và tại sao bà đến đây ?". Bà ta đáp :"Đừng hỏi tôi, tôi là xác chết, tôi chẳng có tên chẳng có họ, cũng chẳng có chỗ ở, tôi đến đâu thì ở đó". Ông xã trưởng nghe bà ta nói thế cũng kinh hãi, bèn đem bà ta đi ra khỏi làng khoảng năm mươi bộ, rồi trở về cổng làng thì thấy bà ta đang ở sau lưng, bèn đem bà ta đi xa khoảng bảy mươi bộ, lần này bà ta cũng theo về. Cuối cùng ông ta và ba nhân viên nữa mang bà ta đi xa khoảng một trăm năm mươi bộ và nói :"Đi mau ! Nếu không ta bắn !" Và họ bắn chỉ thiên hai lần. Bà ta ngã xuống đất vì sợ hãi, tưởng tiếng súng là tiếng sấm sét đã giết bà ta trước kia. Lần này bà ta chẳng theo họ trở về làng.<br />
<br />
Khi ông xã trưởng và mấy người nhân viên trở về thì nghe tin con gái của ông Hạ Văn Sơn bị bệnh, chẳng nói, chẳng ăn uống, chẳng ngủ, chỉ nằm trên giường trừng mắt, đầu thì trên gối, đít thì chổng lên trời, đã bảy tám ngày không ăn uống gì cả.<br />
<br />
Trước khi đến nhà ông Hạ Văn Sơn, tôi nói với Hàn Cương Cát :"Con nói, nếu chúng ta dính vào việc này thì sẽ chết. Thà ta chết chứ không để cho đệ tử quy y với ta chết. Thứ nhất, ta phải cứu những người quy y với ta, không thể thấy họ chết mà không lo. Thứ hai, ta phải cứu con ma này, con nói chẳng có ai quản được nó, nhưng nó đã phạm biết bao tội lỗi, nhất định sẽ có người hàng phục được nó. Nó đã tu luyện nhiều năm, nếu tiêu diệt nó đi, thật là đáng tiếc. Nếu nó có bản lãnh giết ta, ta cũng phải đi cứu cô ta. Thứ ba, ta phải cứu tất cả chúng sinh trên thế gian, nếu ta không hàng phục được nó thì tương lai nó sẽ hại nhiều người nữa, vì những lý do đó, ta nhất định phải đi". Cho nên mới đến nhà của người bệnh.<br />
<br />
Lúc đó ông xã trưởng cũng đến, nghe chúng tôi đàm luận, thiếu phụ đó là con ma, ông ta nghĩ lại nói :"Hèn chi hôm đó tôi dùng tay nhấc bà ta lên mà chẳng cần tí sức nào, giống như chẳng có vật gì, nếu không nói, tôi cũng nghĩ không ra, bây giờ mới biết đó là ma".<br />
<br />
Chúng tôi phải tìm cách hàng phục nó. Làm sao để hàng phục ? Trong Chú Lăng Nghiêm có năm loại pháp. Trong năm loại pháp có : "Tiêu tai pháp", tức là ai có tai nạn gì thì có thể làm cho khỏi. Có "Cát tường pháp", có sự việc gì không được cát tường thì có thể biến thành cát tường. Có "Câu triệu pháp", tức là bất cứ yêu ma quỷ quái xa bao nhiêu thì có thể tùy thời bắt nó lại, lại có "Hàng phục pháp", tức là ma quỷ đến thì bạn hàng phục được nó. Có những loại pháp này, cho nên lúc đó tôi dùng "Chú Lăng Nghiêm" để kêu Như Ý Ma Nữ đến, khi gọi đến, bà ta vào cửa mang một mùi tanh không tưởng tượng nổi, ai mà ngửi mùi tanh đó thì phải ói mửa.<br />
<br />
Khi bà ta vào thì dùng cái mũ mà bà ta đã luyện để chụp lên đầu tôi, nhưng chụp lên đầu tôi chẳng được, cái mũ của bà ta đã vô dụng, bà ta lại đem banh tròn tròn ném lên mình tôi, song le cũng chẳng trúng thân của tôi.<br />
<br />
Bà ta đã dùng hai thứ pháp thuật đều chẳng có công hiệu, vô dụng. Bà ta biết đã hết cách, muốn bỏ chạy ! Song le, đông tây nam bắc, tứ duy trên dưới chẳng có lối thoát. Vì khi bà ta vào thì tôi đã kiết giới, giống như đã bầy bố trận, cho nên bà ta chẳng có lối thoát; phía trên, phía dưới trước sau phải trái đều có hộ pháp thiên long bát bộ giữ bà ta lại, chạy không khỏi, hết cách bà ta bèn quỳ xuống khóc lên. Tôi bèn thuyết pháp "Tứ Diệu Đế", "Mười Hai Nhân Duyên" và "Pháp Lục Độ" cho bà ta nghe. Bà ta hiểu được, muốn quy y Tam Bảo, phát bồ đề tâm. Tôi chấp nhận và quy y cho bà ta, cho bà ta tên là "Kim Cang Như Ý Nữ". Quy y rồi, bà ta luôn luôn theo tôi đi các nơi độ người. Nhưng bản tánh của bà ta là ma tính, theo tôi đến nơi nào thì nơi đó cũng đều có mùi tanh. Về sau thấy vậy, tôi kêu bà ta đến núi Lạc Pháp, "Động Vạn Thánh Linh Long" thuộc huyện Giao Hà tỉnh Cát Lâm để tu hành.<br />
<br />
Tại sao nơi đó lại gọi là "Động Vạn Thánh Linh Long ?" Tôi có rất nhiều đệ tử kỳ quái quy y, tôi đều phái họ đến đó để tu hành. Nơi đó, tôi cũng đã từng đến. Về sau bà ta tu hành chẳng bao lâu thì có chút thần thông, thường thường đi đến các nơi cứu người. Song le bà ta cứu người cũng không muốn cho người biết là bà ta cứu người như thế nào, do đó :<br />
<br />
"Làm việc thiện mà muốn người thấy,<br />
thì chẳng phải là chân thiện ;<br />
Làm việc ác mà sợ người biết,<br />
thì là đại ác".<br />
<br />
Bạn làm việc tốt, muốn cho người biết thì chẳng phải là việc chân thiện. Bạn làm việc ác mà sợ người biết thì là việc rất ác. Cho nên "Như Ý Ma Nữ" này cuối cùng cũng biến thành quyến thuộc của Phật. Cái động này sao lại gọi là "Động Vạn Thánh Linh Long ?" Vì một động có ba cửa động, ở bên này có thể nhìn qua bên kia, bên kia có thể nhìn qua bên này, thấu suốt với nhau cho nên gọi là linh long. Giống như trong ly thủy tinh đựng gì thì biết ngay, cho nên gọi là linh long. Chẳng phải nhất định nói về ly thủy tinh, tức là bên trong có thể nhìn thấy bên ngoài, bên ngoài có thể nhìn thấy bên trong. Động này có ba cửa động, ba cửa động này đều thông với nhau, ở trong đó có một cái miếu. Vật dụng tạo miếu này đều dùng dê để chở, một lần vậy sức dê chở được hai miếng ngói hoặc một khúc gỗ, vì núi đó quá cao. Trong động đó, bên ngoài cửa phía tây có động "Lão Tử". Cửa động phía đông có động "Tích Thủy". Trong động tích thủy đó nước nhỏ từng giọt từng giọt đủ cho thiên nhân vạn mã uống. Phía sau động là động "Kỉ Tổ", tức là Kỉ Hiểu Đường. Kỉ Hiểu Đường cũng là người quê của tôi ở Đông Bắc Trung Quốc, ông ta đã hàng phục được năm con quỷ, ở núi Lạc Pháp này và hàng phục được "Hắc Ngư Tinh". Hắc Ngư Tinh này vào đời nhà Minh làm quan ở Bắc Kinh gọi là Hắc đại nhân. Ông ta họ Hắc, nhưng ông ta chẳng phải người, ông ta là cá. Kỉ Hiểu Đường biết được nên bắt tóm ông ta, biết trước ông ta có ngày sẽ đi qua núi này cho nên ở đó đợi ông ta. Khi ông ta đi qua, Kỉ Hiểu Đường dùng "Chưởng thủ lôi" đánh chết Hắc đại nhân tại đó.<br />
<br />
Cho nên động ở trên núi đó, chẳng ai biết rõ có bao nhiêu cái động. Hôm nay bạn biết có bảy mươi hai cái, ngày mai thì có bảy mươi ba cái, ngày mốt lại thêm nữa hoặc là có bảy mươi, không nhất định được.<br />
<br />
Có một người đi lên núi, nhìn thấy hai ông lão đang đánh cờ. Y nhìn lên đó bèn ho lên một tiếng thì hai ông già râu dài nhìn nói với nhau :"Sao y lại lên đây ?" Cửa động bằng đá tự nhiên đóng lại ! Y bèn quỳ ở đó cầu pháp cho đến chết. Bây giờ mộ của y vẫn còn ở bên ngoài cửa động đá. Bạn thấy đó ! Người ta cầu đạo, cầu pháp, quỳ chết ở đó cũng không đứng dậy. Cho nên núi đó có rất nhiều thần tiên.<br />
<br />
Tôi có gặp một người tên là Lý Minh Phước, y có võ thuật, chạy rất nhanh như khỉ. Một ngày nọ tôi đến nơi đó, đi vào lúc sáng sớm khoảng hơn bốn giờ sáng thì lên tới núi, thấy y đang lễ Phật. Đầu tóc phía sau của y bó lại nặng khoảng ba, bốn cân, trên đầu có cài cây trâm, y chưa bao giờ tắm rửa. Hình dáng của y rất nhỏ, mặt, mắt, mũi miệng, thân thể rất nhỏ, nhưng rất mạnh vô cùng. Y một mình có thể cầm hai thanh sắt làm đường rầy (xe lửa), trong khi đó tám người thường chỉ khiêng được một thanh sắt. Chẳng ai biết y bao nhiêu tuổi, người ở đâu đến, vào thời nào ? Đó là một người kỳ quái mà tôi đã gặp qua ở đó.<br />
<br />
Những gì mà tôi vừa kể với quý vị chẳng phải là sự tích, chẳng phải tự tạo, mà là sự thật, một sự việc chân thật ! Các bạn tin cũng tốt, không tin cũng tốt, tin hay không tùy bạn !</span>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-68034534640711784652011-08-30T19:01:00.001-07:002011-08-30T19:01:26.902-07:00Mụt Nhọt Mặt Người Đời Quá Khứ<div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Thời vua Ý Tông đời Đường, có vị Quốc Sư tên gọi là Thiền Sư Ngộ Đạt. Khi Thiền sư ở chùa Cư An, tỉnh Trường An giảng kinh, vua Ý Tông đã thân hành đến nghe pháp và đặc biệt ban tặng cho Thiền sư một bảo tòa bằng trầm thủy đàn hương. Lúc bấy giờ, Thiền sư sanh tâm kiêu ngạo, tự cho mình là bậc cao tăng nhất đời, không ai sánh bằng. Không ngờ trong tâm vừa mới khởi vọng tưởng, tức thần Hộ Pháp liền bỏ Thiền sư mà đi. Thế là oan gia trái chủ đã theo Thiền sư mười đời, nay tìm được cơ hội phục thù, nó bèn đánh một chưởng vào ống quyển Thiền sư. Rồi từ đó, đầu gối Thiền sư phát nổi lên một mụt nhọt mặt người, có lông mi, có mắt, có miệng, có răng. Mỗi ngày nó phải được ăn thịt, uống rượu. Nếu không cho nó thịt rượu thì mụt nhọt lại hành đau nhức, khổ không thể tả. Bao nhiêu thầy thuốc cũng bó tay, vô phương cứu chữa.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Trong lúc Thiền Sư Ngộ Đạt chưa được chức vị Quốc Sư hiển đạt vẻ vang. Có một năm ở chùa tại Trường An, Thiền sư gặp một vị tăng đang khổ sở vì bị mọc mụt độc quái ác. Mụn nhọt chảy nước, chảy máu trông thật là dơ bẩn, lại còn xông lên mùi hôi thúi, khiến cho người ta muốn nôn mửa cả ra. Ai nấy cũng không dám đến gần vị tăng bệnh. Lúc đó Thiền Sư Ngộ Đạt đang ở phòng kế bên, ngày ngày sang chăm sóc vị tăng bệnh nầy. Thiền sư hết lòng phục dịch, dâng cơm nước và rửa ráy vết thương cho vị tăng mà không ngại gì đến mùi hôi thúi bẩn thỉu. Thời gian trôi qua chẳng hay chẳng biết, hè qua rồi thu lại. Đến lúc khí hậu trở nên mát mẻ, mụt độc của vị tăng cũng dần dần lành lặn. Lúc sắp chia tay, vị tăng bệnh nói với Thiền sư Ngộ Đạt rằng: “Cám ơn ngài đã chiếu cố đến tôi. Sau nầy nếu ngài có chuyện gì nan giải, hãy đến Mông Sơn ở Tứ Xuyên tìm tôi. Trên núi có hai cây đại tùng làm dấu hiệu. Tên tôi là Ca Nặc.”</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Thiền Sư Ngộ Đạt hồi tưởng lại chuyện xưa, bèn lên Mông Sơn tìm vị Tăng bị mụt độc lúc trước.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Từ xa trông lên lưng chừng núi, Thiền sư đã thấy có hai cây tùng cao ngất tầng mây. Khi đến trước hai cây tùng, Thiền sư phát hiện có một ngôi chùa bằng vàng chói sáng rực rỡ. Vừa định đi tìm thì đã thấy vị tăng đang đứng đợi trước cửa chùa mỉm cười, rồi đưa Thiền sư vào. Sau khi Thiền Sư Ngộ Đạt đảnh lễ vị Tăng, Thiền sư bèn kể rõ về nỗi khổ của mình. Vị Tăng bảo Thiền sư sáng hôm sau xuống phía mỏm đá dưới con suối để tẩy rửa vết thương, như thế sẽ lành bệnh. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Sáng ngày thứ hai, chú tiểu đồng đưa Thiền sư đến mỏm đá dưới con suối. Vừa lúc định rửa vết thương, mụt nhọt mặt người bèn phát ra tiếng nói: “Hãy khoan rửa! Giữa chúng ta có mối oán thù chưa hết. Ngài là bậc cao tăng, từng đọc rất nhiều kinh sách, nhất định là Ngài đã đọc qua lịch sử Tây Hán rồi. Vậy Ngài có biết chuyện Viên Án chém ngang lưng Triệu Thố không? Viên Án là Ngài bây giờ, còn Triệu Thố chính là tôi lúc trước. Ngài đã mười đời làm thầy tăng, tu hành nghiêm chỉnh, cho nên tôi không tìm được dịp báo thù. Bởi Ngài sanh tâm kiêu mạn nên tôi mới có cơ hội chui vào. Ngày nay nhờ Tôn giả Ca Nặc từ bi, muốn hòa giải mối oán cừu giữa chúng ta, Ngài dùng pháp thủy tam muội tẩy rửa cho tôi, vậy từ nay về sau, tôi sẽ không còn oán hận Ngài nữa.”</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Sau khi Quốc Sư Ngộ Đạt nghe xong, hồn phiêu phách tán đến chín tầng mây. Ngài vội vàng vốc nước rửa mụt nhọt độc, nhưng lại cảm thấy đau nhói tận xương tủy, rồi ngã ra hôn mê bất tỉnh. Sau một thời gian lâu, khi chợt tỉnh lại và nhìn xuống đầu gối thì không còn thấy dấu vết mụt nhọt độc nữa. Bấy giờ Quốc Sư mới biết vị tăng đó là bậc thánh tăng. Quốc Sư định trở lại chùa để chiêm ngưỡng và lễ bái vị tăng, nhưng vừa quay đầu nhìn lại thì chẳng thấy ngôi chùa đâu cả. Thế rồi Quốc Sư kết cỏ dựng lều ở tại nơi đó và sớm chiều chăm lo lễ tụng. Quốc Sư là tác giả của bài Sám Pháp, như ngày nay chúng ta biết đó là bản “Từ Bi Tam Muội Thủy Sám” gồm có ba quyển vậy.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Qua hai câu chuyện trên, tuy có khác chút ít, như phần lớn là giống nhau, đều là cảnh giác cho người ta biết rằng nhân quả báo ứng thật không sai sót mảy may. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Chuyện thứ nhất là sự báo ứng hiện ngay đời nầy, còn câu chuyện thứ hai là sự báo ứng đến mười đời sau. Nói tóm lại, khi nghiệp duyên thành thục là thời vận của chúng ta cũng đã đến lúc và rốt cuộc phải chịu quả báo thôi. Hôm nay tôi nói về hai công án nầy để cho mọi người hiểu rõ sát sanh là có hại, và đừng nên xem đó như trò chơi con nít. Hiện nay khoa học ngày càng tiến bộ, cho nên vũ khí giết người cũng sẽ càng tệ hại hơn. Bao thứ nhân quả họ đã gây ra thì làm thế nào tiêu trừ cho được? </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Hiện nay thế giới đang trong cảnh đen tối đầy chướng khí, đụng một chút là cuộc đại chiến sẽ bùng nổ. Bọn ma quỷ oán hờn sẽ mượn cớ nầy để báo thù. Nhưng oan oan tương báo, biết đến bao giờ mới hết đây? Trừ phi là không sát sanh; nếu không, chúng ta vĩnh viễn sẽ không có ngày được bình an.</span></div><div align="right"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> <i> Giảng ngày 15 tháng 4 năm 1984</i></span></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-39149754941401506802011-06-02T05:06:00.000-07:002011-06-02T05:06:04.328-07:00Tổ Sư Ba Xe<div class="mbl notesBlogText clearfix"><div>Cách đây một vạn năm, có một vị hành giả già. Vị hành giả ấy tu pháp môn ngồi thiền. Lúc đầu mới tập ngồi thiền, ngồi được một lát thì bắp chân đau không chịu nổi, lão hành giả liền đấu tranh với bắp chân đau rằng:<br />
- Ngươi không chịu đau được à? Nhưng ta thì chịu đau được!<br />
Ông đã thương lượng với bắp chân như thế.<br />
Bắp chân rên rỉ:<br />
- Ôi! Tôi chịu hết nổi rồi.<br />
- Không chịu được là việc của ngươi. Ta không quan tâm.<br />
<a name='more'></a><br />
Ông vẫn tiếp tục ngồi thiền. Lần đầu, ông ngồi được nửa giờ thì đổi chân, sau đó kiên trì luyện tập ngồi được một tiếng, rồi đến một tiếng rưỡi, hai tiếng. Cứ luyện tập như thế, về sau mỗi lần ngồi ông có thể ngồi được mấy ngày hoặc mấy tháng, thậm chí mấy năm cũng không có vấn đề gì. Bắp chân của ông cuối cùng đã phải chịu thua. Trải qua một thời gian dài ngồi thiền, ông không còn quan tâm đến khái niệm thời gian nữa, một lần ngồi là nhập định cả mấy mươi năm. Ngồi suốt mấy mươi năm, ông đứng dậy đổi chân rồi lại ngồi tiếp, ngồi đợi Đức Phật Thích-ca ra đời giúp Ngài hoằng dương Phật pháp. Vì ông ta thích nhập định nên ở luôn trong định không dậy. Lần này vào định ở luôn trong ấy suốt mấy nghìn năm, quần áo trên người đều đã mục nát, mặt đầy bụi đất, tóc trên đầu cũng bị chim dùng làm tổ. Ông tuy là người nhưng nhìn chẳng khác gì một pho tượng, không biết ông đã ngồi như thế bao nhiêu năm.<br />
Đến đời Đường, Pháp sư Huyền Trang đi Ấn Độ thỉnh kinh, trên đường gặp vị hành giả này. Lúc ấy y phục trên thân ông đã rách đến độ không thể rách thêm được nữa. Bụi đất bám trên y phục, trên mặt, trên đầu thành một lớp rất dày. Pháp sư Huyền Trang bèn đánh lên một hồi khánh dài để gọi ông tỉnh dậy. Keng! Vị hành giả già ấy đã tỉnh. Ông hỏi pháp sư Huyền Trang:<br />
- Ngài làm gì vậy?<br />
- Thế Tôn giả đang làm gì? Pháp sư Huyền Trang hỏi lại.<br />
- Tôi ở đây đợi Đức Phật Thích-ca ra đời sẽ đến giúp Ngài hoằng dương Phật pháp.<br />
- Ồ! Tôn giả nhập định đã ở trong đó quá lâu suốt mấy nghìn năm. Đức Phật Thích-ca-mâu-ni đã nhập niết-bàn hơn một nghìn năm rồi mà Tôn giả vẫn còn đợi Ngài xuất thế ư! Pháp sư Huyền Trang nói.<br />
- Thế chẳng sao, tôi sẽ ngồi thiền tiếp để đợi Đức Phật Di-lặc ra đời sẽ giúp Ngài giáo hóa chúng sinh.<br />
Thế là ông lại muốn nhập đinh tiếp. Vì ông đã quen nhập định rồi, nên chỉ luôn muốn nhập định.<br />
Pháp sư Huyền Trang khuyên:<br />
- Này Tôn giả, Tôn giả đừng nên nhập định nữa. Tuy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nay đã nhập niết-bàn, nhưng Phật pháp vẫn còn ở thế gian, Tôn giả hãy giúp tôi hoằng dương Phật pháp.<br />
- Tôi giúp Ngài hoằng dương Phật pháp như thế nào? Ngài là ai?<br />
- Tôi là người xuất gia ở triều Đường, pháp danh Huyền Trang, nay tôi chuẩn bị đến Ấn Độ thỉnh pháp bảo của Phật. Đợi tôi thỉnh kinh về nhất định phải có người giúp tôi hoằng dương Phật pháp. Tôn giả đã nhập định đợi ở đây nhiều năm như thế, việc gì cũng chẳng làm thật là đáng tiếc. Tôn giả hãy đến giúp tôi hoằng dương Phật pháp nhé!<br />
- Tôi có thể giúp được Ngài ư?<br />
- Có thể, nhưng không phải bằng thân này. Tôi tin thân hiện tại này của Tôn giả muốn đứng cũng không đứng dậy được, bởi Tôn giả đã ngồi quá lâu nên hai chân đã gắn khít vào nhau. Vì thế, Tôn giả nên đổi căn phòng này của mình và dọn qua một ngôi nhà khác.<br />
- Thế tôi phải dọn đến đâu?<br />
- Tôn giả nên đầu thai vào ngôi nhà có mái ngói lưu li màu vàng ở Trường An, đợi sau khi trở về, tôi sẽ đến tìm Tôn giả.<br />
- Vâng! Tôi tin lời Ngài, tôi sẽ giúp Ngài hoằng dương Phật pháp.<br />
Thế là vị ấy đầu thai đến Trường An.<br />
Nguyên pháp sư Huyền Trang bảo vị ấy đầu thai vào nhà có mái ngói lưu li màu vàng, nhưng vị ấy nhớ lầm thành mái ngói màu xanh nên đã đầu thai nhầm vào nhà quan Úy Trì[1], làm con trai của người anh quan Úy Trì.<br />
Lúc pháp sư Huyền Trang rời Trường An, vua Đường Thái Tông có hỏi Ngài:<br />
- Lúc nào Pháp sư về? Khi về, nhớ báo tin trước để trẫm nghinh đón Pháp sư.<br />
Pháp sư Huyền Trang liền chỉ vào cây tùng trước cung nói:<br />
- Nhánh của cây tùng này đều phát triển về hướng Tây, Hoàng Thượng xem khi nào nhánh của nó quay về hướng Đông thì đó chính là lúc bần đạo trở về.<br />
Vì thế, vua Đường Thái Tông thường nhìn cây tùng xem lúc nào nhánh của nó uốn về hướng Đông.<br />
Trải qua mười bốn năm, có một hôm, tất cả nhánh của cây tùng này đều uốn về hướng Đông. Quí vị xem có kỳ lạ không? Cây tùng này có sự cảm ứng rất lớn. Thái Tông liền bảo triều thần: “Có lẽ hôm nay pháp sư Huyền Trang trở về, chúng ta mau ra ngoài thành nghinh đón Pháp sư quay về”. Thế là mọi người đều ra ngoài thành nghinh đón, quả nhiên rước được pháp sư Huyền Trang trở về. Pháp sư Huyền Trang vừa nhìn thấy Thái Tông liền vui mừng vô hạn nói:<br />
- Bần đạo xin chúc mừng Hoàng thượng<em>.</em><br />
- Pháp sư chúc mừng trẫm điều gì? Trẫm cũng đâu có việc gì đặc biệt. Vua nói.<br />
Huyền Trang đáp:<br />
-Chẳng phải bần đạo vừa đi được một năm thì Hoàng Thượng hạ sinh được một thái tử sao?<br />
-Đâu có! Pháp sư đi đã bao nhiêu năm, trẫm cũng chẳng có thêm được một thái tử nào!<br />
Huyền Trang vừa nghe, bảo:<br />
-Thật kì lạ, bần đạo có bảo một người đến làm thái tử của Hoàng Thượng, sao người ấy vẫn chưa đến? Hoàng Thượng hãy chờ đợi, đến tối bần đạo quan sát xem người ấy đến nơi nào.<br />
Vua Đường Thái Tông cũng không biết Pháp sư Huyền Trang nói chuyện gì nên cũng chỉ nói xuôi theo mà không tin lắm. Đợi đến chiều tối, pháp sư Huyền Trang ngồi thiền, quán sát nhân duyên của người kia thì thấy ông đã đầu thai vào nhà họ Úy Trì, nay đã mười bốn tuổi, dáng người cao to nhưng suốt ngày chỉ biết rong chơi lêu lỏng. Quí vị xem! Vị hành giả này trước kia sống rất khuôn phép, nhưng khi đến nhà họ Úy Trì thì chẳng giữ phép tắc nữa. Không giữ phép tắc như thế nào? Người ấy lại ăn thịt, uống rượu, vui đùa phụ nữ … không từ thú vui ngũ dục nào. Vì nhà họ Úy Trì có tiền có thế, lại có địa vị, cho nên người ấy làm điều gì cũng không ai dám ngăn cản.<br />
Pháp sư Huyền Trang thấy người ấy đi lầm đường, đầu thai vào nhà họ Úy Trì, nên ngày hôm sau Ngài tâu với vua:<br />
-Hôm qua bần đạo nói bệ hạ sẽ sinh một thái tử, nhưng người ấy đã đi lầm đường. Trước đây bần đạo bảo người ấy đầu thai làm thái tử nhưng người ấy lại đi nhầm vào nhà họ Úy Trì. Nay xin Hoàng Thượng hạ thánh chỉ bảo người ấy xuất gia. Vì trước đây bần đạo có giao hẹn với người ấy đến giúp đỡ bần đạo hoằng dương Phật pháp.<br />
Đường Thái Tông nghe xong nói:<br />
-Được.<br />
Thế rồi, Hoàng đế hạ một đạo chiếu thư bắt đứa cháu trai của ông Úy Trì phải phụng chỉ xuất gia. Mệnh lệnh của Hoàng đế thì gọi là chiếu thư, hay thánh chỉ. Ông Úy Trì vừa tiếp chiếu thư bèn gọi người cháu đến, bảo:<br />
-Nay Hoàng đế bắt cháu phải xuất gia.<br />
-Đâu có lý ấy. Vì sao Hoàng đế lại có thể bắt cháu xuất gia! Cháu còn vui chơi chưa đủ, sao có thể xuất gia được chứ!<br />
-Không thể cãi lệnh được, Hoàng đế bảo cháu xuất gia, cháu không tuân lệnh thì sẽ bị chém đầu. Cháu không thể kháng lại lệnh của Hoàng đế! Ông Úy trì nói.<br />
Người cháu không phục:<br />
-Thế cháu sẽ đi gặp Hoàng đế để hỏi cho ra lẽ.<br />
Pháp sư Huyền Trang biết người ấy không muốn xuất gia nên ngày hôm trước Ngài đã thưa với vua:<br />
-Ngài mai, cháu của ông Úy Trì sẽ đến diện kiến bệ hạ để nói lí lẽ. Người ấy sẽ xuất gia có điều kiện, nhưng bất luận người ấy đưa ra điều kiện gì, xin Hoàng Thượng đều chấp thuận, người ấy thích như thế nào nên chiều theo thế ấy.<br />
Vua Đường Thái Tông nói:<br />
-Được! Ngày mai trẫm sẽ theo ý pháp sư.<br />
Hôm sau, quả nhiên ông Úy Trì dẫn cháu đến diện kiến Hoàng đế. Đường Thái Tông bảo người cháu:<br />
-Nay trẫm tin sâu Phật pháp, biết xuất gia là một việc rất tốt, cho nên trẫm hy vọng khanh xuất gia để hoằng dương Phật pháp.<br />
- Hoàng Thượng muốn thần xuất gia ư? nhưng thần có ba thứ chẳng thể bỏ được, nếu Hoàng Thượng có thể chấp nhận ba điều kiện này thì thần xin vâng chỉ. Còn như Hoàng Thượng không chấp nhận thì dù Hoàng Thượng có giết thần, thần cũng không xuất gia!<br />
Quí vị xem! Người này quả thật xem thường sự sống chết.<br />
-Ngươi có ba điều kiện gì?<br />
-Thần rất thích uống rượu, người xuất gia thì không được uống rượu, nhưng lần này thần vâng chỉ xuất gia, xin Hoàng thượng cho ngoại lệ vì thần không thể thiếu rượu. Sau khi thần xuất gia, bất luận là đi đến chỗ nào đều phải có một xe rượu theo sau.<br />
-Trẫm chấp nhận cho khanh điều kiện này. Vậy điều thứ hai là gì? Đường Thái Tông hỏi.<br />
-Thần rất thích ăn thịt, người xuất gia phải ăn chay, nhưng thần thì không thể, thần nhất định phải có thịt, một ngày không ăn thịt thần không chịu nổi. Cho nên bất luận thần đi đến nơi nào cũng đều có một xe thịt theo sau.<br />
-Cũng được! Chuyện nhỏ, trẫm chấp nhận. Còn điều kiện thứ ba? Đường Thái Tông hỏi.<br />
-Xuất gia làm Hòa thượng thì không được có vợ, không được có người nữ, Hoàng Thượng ép thần xuất gia nhưng thần không thể thiếu được nữ sắc. Nên bất kể thần đi đến đâu cũng phải có một xe mỹ nữ theo sau. Thần cần một xe rượu, một xe thịt, một xe mỹ nữ, nếu bệ hạ chấp nhận được ba điều kiện ấy của thần thì thần có thể miễn cưỡng xuất gia theo ý Hoàng thượng. Nếu một trong ba điều kiện không được đáp ứng thì thần cũng không xuất gia!<br />
-Những điều kiện ngươi đưa ra quá hư đốn. Thái Tông nói.<br />
Nhưng Pháp sư Huyền Trang đã dặn dò vua trước là bất luận người ấy có đưa ra yêu cầu gì thì vua cũng đều nên đáp ứng, vì thế Thái Tông đều chấp thuận cho người ấy, vua nói:<br />
-Được! Ngươi muốn một xe mỹ nữ ta cũng đáp ứng cho ngươi, chỉ cần ngươi xuất gia là được. Những điều kiện của ngươi ta đều chấp nhận. Bây giờ ngươi có thể xuất gia rồi chứ?<br />
Người cháu ông Úy Trì nghĩ: “Những gì mình thích đều có, Hoàng đế đều đã đáp ứng nguyện vọng của mình, tuy trong lòng mình không vui lắm nhưng cũng đành buồn bã chấp nhận đến xuất gia ở chùa Đại Hưng Thiện”.<br />
Chùa Đại Hưng Thiện là chùa pháp sư Huyền Trang ở tu tập. Cổng ngoài cách phòng phương trượng mười dặm, tức xa khoảng 3-4 km. Bên trong chùa có thể chứa được cả mấy vạn người. Lần này Hoàng đế hạ chiếu cho người đến xuất gia nên chùa gióng chuông trống cung nghinh rất náo nhiệt. Trong chùa, khi có Phật sự gì gióng chuông trống lên thì Hộ pháp Thiện thần đều đến hộ trì, cho nên chuông trống trong chùa không thể tùy ý muốn đánh thì đánh, không muốn đánh thì không đánh. Nếu chùa có pháp hội thì nhất định phải đánh, đánh chuông trống không phải để thông báo cho mọi người biết mà là để cho tất cả Hộ pháp đều nghe được hiệu lệnh ấy. Lúc này chùa Đại Hưng Thiện, có người phụ trách đánh trống người phụ trách đánh chuông, tiếng chuông trống được đánh vang lên tùng… tùng… tùng …tùng, boong… boong …boong …boong.<br />
Cháu ông Úy Trì đi vào trong chùa, nghe được tiếng chuông trống vang lên như thế, người ấy bỗng nhiên khai ngộ và nhớ rõ: “Ồ! Ta vốn là hậu thân của một vị tu hành già nọ!” Thế là người ấy quay lại xua tay bảo với ba xe đằng sau:<br />
<strong>-Các ngươi hãy quay về, quay về đi! Nay ta đã đủ cả rồi, không cần gì cả!</strong><br />
Thế là xe mỹ nhân cũng lui về, xe rượu cũng chạy mất, xe thịt cũng không còn. Người ấy đã đến chùa Đại Hưng Thiện xuất gia như thế, vì vậy có người gọi Ngài là Tổ sư ba xe (Tam Xa Tổ sư).<br />
Vị Tổ sư ba xe đó chính là pháp sư Khuy Cơ[2], bậc thầy về Duy thức. Ngài thông minh tuyệt đỉnh, bất luận kinh điển gì chỉ cần xem qua một lần là ghi nhớ chẳng bao giờ quên. Đó là nhân duyên (xuất gia) tu hành của Pháp sư Khuy Cơ. Về sau, Ngài đã dùng hết tâm lực của mình vào sự nghiệp hoằng dương Phật pháp ở triều Đường.<br />
<em>Trích</em><strong> "Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện-Kinh Hoa Nghiêm" HT. Tuyên Hóa lược giảng</strong><br />
<strong>Ban phiên dịch Vạn Phật Thành</strong></div></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-23151457022983058412011-05-20T06:16:00.000-07:002011-05-20T06:16:07.207-07:00Bồ Tát Quán Âm Có Thể Thị Hiện Bất Cứ Nơi Nào<blockquote><blockquote><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: red; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 10pt;">Bài nói chuyện của Thầy Hằng Lai </span><span><span style="font-size: x-small;">(<a href="http://www.dharmasite.net/BoTatQuanAmCoTheThiHienBatCuNoiNao.htm#1">1</a>) </span></span><span style="font-size: 10pt;">vào lúc ăn trưa ngày 24 tháng 10 năm 2010, Ngày Lễ Bồ Tát Quán Âm Xuất Gia, tại Tu viện Kim Phong ở Seattle</span></span><span style="color: red; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;"><o:p> </o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: red; font-family: Tahoma; font-size: x-small;"><span>Trích dịch từ báo Vajra Bodhi Sea số tháng 12, 2010. Trang 32-33</span></span></div></blockquote><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"> </div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="font-size: 12pt;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;">Vào khoảng thời gian chúng ta mua Vạn Phật Thánh Thành (VPTT), tôi có một chiếc xe gắn máy. Do tôi </span><span style="color: navy; font-family: Tahoma;">đã</span><span style="color: red; font-family: Tahoma;"> </span><span style="color: navy; font-family: Tahoma;">phải đi thường xuyên qua lại giữa Tu Viện Kim Sơn ở <st1:city w:st="on">San Francisco</st1:city>và VPTT, và</span><span style="color: red; font-family: Tahoma;"> </span><span style="color: navy; font-family: Tahoma;">mỗi chuyến đi mất khoảng hai tiếng rưỡi. Vì vậy, tôi đã tự nghĩ và đắm chìm trong vọng tưởng : nếu tôi mua một chiếc xe gắn máy để hoàn thành những chuyến đi này, tôi sẽ thực sự tiết kiệm được rất nhiều xăng. Vì vậy, tôi hỏi Sư Phụ [Hòa Thượng],<span> </span>"Con có thể sử dụng số tiền mà mẹ con đang giữ giùm con để mua một chiếc xe gắn máy không?"<o:p> </o:p></span></span><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span><span style="font-size: x-small;">(<a href="http://www.dharmasite.net/BoTatQuanAmCoTheThiHienBatCuNoiNao.htm#2">2</a>) </span></span><span style="font-size: 12pt;"></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Sư Phụ rất từ bi nói:<span> </span>"Được, nếu con muốn làm điều đó thì cứ làm.<o:p></o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">"Vì vậy, tôi đã mua chiếc xe gắn máy này. Tôi bắt đầu dùng xe này nhưng sớm nhận ra rằng đường xa lộ 101 không được thân thiện với xe gắn máy lắm. Đường này có quá nhiều xe hơi và tôi không cảm thấy thoải mái khi lái. Vì vậy, thay vào đó, tôi chuyển sang xa lộ 37, một con đường phụ song song với xa lộ lộ 101. Đó là một con đường ngoằn ngèo có hai làn đường. Đúng ra đó là một con đường an toàn hơn vì tôi không phải chạy xe nhanh.<o:p> </o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Một ngày nọ, tôi đang chạy xe về phía nam từ VPTT và đi được khoảng nửa đường trên xa lộ 37 thì thấy một người đứng ở giữa đường. Ông là một người Mỹ gốc Da Đỏ. Ông có mái tóc cột lại phía sau và có đeo xâu chuỗi. Đó là một người đàn ông lớn tuổi và trông rất thông thái. Khi tôi đến gần, ông đưa tay lên ra hiệu cho tôi chạy chậm và dừng lại.<o:p></o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Khi tôi dừng lại, ông ta nói với tôi:<span> </span>"Ông phải rất cẩn thận, phía đường đằng kia có chỗ dầu tràn lớn, ông có thể mất kiểm soát chiếc xe gắn máy của ông và xảy ra tại nạn. Tôi muốn cảnh báo ông."<o:p> </o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Tôi chân thành cảm ơn ông, chạy xe chậm lại, và đi tiếp.<o:p> </o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify; vertical-align: top;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Sau đó, khi tôi trở lại để gặp Sư Phụ, tôi kể với ngài về việc xảy ra. Tôi đề cập đến người Mỹ gốc Da Đỏ đứng ở giữa đường, và Sư Phụ nói,<span> </span>"Không, không, không! Đó không phải là một người Da Đỏ. Đó là Bồ tát Quán Âm. Con không biết là Bồ tát Quán Âm có thể thị hiện bất cứ hình tướng nào hay sao? Bồ tát Quán Âm đến để giúp con!” Một vài tuần sau khi tôi kể câu chuyện trên, Sư Phụ đến nói với tôi:.<span> </span>"Con biết không, có lẽ tốt hơn là con nên bán xe gắn máy này đi. Thầy có nói chuyện một chút với Bồ tát Quán Âm và tất cả các vị Hộ Pháp than phiền rằng con làm họ mất quá nhiều thời gian. Nếu con gặp tai nạn với xe gắn máy của con thì có vẻ không tốt cho Phật pháp đâu " Tôi hiểu thông điệp đó và chẳng bao lâu sau, tôi đã bán chiếc xe gắn máy.<span> </span>(Thật ngẫu nhiên, tôi đã có thể bán chiếc xe gắn máy đó với giá cao hơn giá mua.)<o:p> </o:p></span></span></div><div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: 0.0001pt; text-align: justify;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt;">Những gì tôi muốn nói ở đây là: Sư Phụ luôn luôn nói với chúng ta rằng khi chúng ta đang lái xe, chúng ta nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm. Việc niệm danh hiệu này có mục đích như là một phước lành để giúp đỡ tất cả các ma quỷ trên đường lộ. Có nhiều ma quỷ đường lộ trên xa lộ. Họ là những linh hồn lang thang và cô độc của những người bị tai nạn mà không sống sót được. Họ vẫn còn ở đó tìm kiếm một "người thay thế"<span> </span>[một người nào đó thế chỗ của họ để họ có thể được thoát ra]. Vì vậy, tốt hơn là nên chú tâm niệm thánh hiệu trong khi lái xe. Hơn nữa, niệm thánh hiệu cũng giúp quý vị khỏi giận dữ lúc lái xe trên đường. Mọi người có thể nổi giận khi ngồi sau tay lái do sự thiếu kiên nhẫn và không suy nghĩ của những người lái xe, do đó, tốt hơn là cũng nên niệm danh hiệu vì lý do này.<o:p> </o:p></span></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><span style="font-size: 12pt; line-height: 18px;">Đó là câu chuyện nhỏ của tôi. A Di Đà Phật!</span></span></div><div style="text-align: justify;"> </div><div style="text-align: justify;"><span style="color: red;"><b><span style="font-family: Tahoma;">Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ VPTT: </span></b></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="color: red; font-family: Tahoma; font-size: x-small;"><a href="" name="1"></a>(1)<b> </b>Thầy Hằng Lai là một trong các Chủ Bút và là người thiết kế hình bìa cho n<span style="line-height: 14px;">guyệt san Vajra Bodhi Sea thuở ban đầu. Xin xem thêm bài </span><span lang="IT"><a href="http://www.dharmasite.net/ConTraiToiTroThanhGiVay.htm">Con Trai Tôi </a></span><a href="http://www.dharmasite.net/ConTraiToiTroThanhGiVay.htm"><span style="line-height: 14px;">Trở Thành Gì Vậy?</span></a></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="line-height: 18px;"><span style="color: red; font-family: Tahoma; font-size: x-small;"><a href="" name="2"></a>(2) Lúc này (1974, 1975) Thầy vẫn còn là cư sĩ nên vẫn còn giữ tiền riêng. Đến tháng 4 năm 1976, Thầy thọ mười giới Sa Di. Đến tháng 8 năm 1976,<span> Thầy </span>thọ Cụ túc giới tại<span> </span>Giới Đàn đầu tiên tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành. Các Tu Sĩ tại Vạn Phật Thánh Thành thọ Ngân Tiền Giới không giữ tiền bạc riêng (xin xem thêm bài Khai Thị </span></span><span style="font-family: Tahoma; font-size: x-small;"><span><a href="http://www.dharmasite.net/KhaiThi6.htm#14">Tiền Có Khả Năng Thần Thông Chớ </a></span><a href="http://www.dharmasite.net/KhaiThi6.htm#14">Lầm Nhân Quả</a> )</span></div><div style="text-align: justify;"> </div></blockquote><div style="text-align: center;"><img border="0" height="240" src="http://www.dharmasite.net/graphics/lotus.jpg" width="298" /></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-84725417074155389452011-05-17T17:20:00.000-07:002011-05-17T17:20:07.158-07:00Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng<div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. Chồng bà ta cũng cho rằng bà đã khai ngộ. Nhưng bà ta nói: “Con người không cần phải tu hành, cũng không cần phải giữ giới.” Thật ra mục đích của bà là tìm tôi để đấu pháp. Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 tại Hội Cư Sĩ Lâm ở Singapore. Bà đến Mỹ được vài năm, học ngồi thiền, rồi tự cho mình đã khai ngộ. Vừa bước vào bà liền cúi đầu lễ tôi, nhưng không để cho chồng con bà nhìn thấy. Chỉ một mình bà hướng đến tôi đảnh lễ. Ban đầu không có chuyện gì, nhưng khi cúi đầu đến lần thứ ba thì bà lại cứ tiếp tục lạy mãi, rồi bắt đầu khóc, càng khóc càng lớn tiếng.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Tôi hỏi: Bà khóc cái gì?<br />
Bà đáp: Con không biết, không phải là con khóc, mà là một người khác bên ngoài đang khóc.<br />
- Ai bảo bà khấu đầu lạy thế?<br />
- Là tự con muốn lạy.<br />
- Bà đang giở trò gì vậy?<br />
- Không biết! Tóm lại, không cần tu, không cần học, không cần giữ giới.<br />
- Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng?<br />
- Không phải!<br />
- Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"> Lần nầy thì con quỷ của bà cũng đành phải nói thật thôi. Nó là quỷ “tự nhiên” từ cõi trời Lục Dục. Nó vốn muốn đấu pháp với tôi, nhưng khi đến đây thì lại không có cách gì để đấu. Thế là nó giở ám chiêu, dùng phương pháp mềm diệu để công kích! Nó vừa khóc, vừa phun độc, nhưng độc nầy cũng không có tác dụng gì. Sau đó tôi nói chuyện với con quỷ đó cho đến khi nó lý cùng trí tận, nó mới thật tình xuống nước. Lúc bấy giờ bà Phật tử nọ cũng tỉnh lại và không còn náo loạn nữa.</span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-family: Tahoma;"> Giảng ngày 30 tháng 7 năm 1985</span></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-39449255126700830632011-05-17T17:19:00.000-07:002011-05-17T17:19:27.092-07:00Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?<span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b></b></span><br />
<div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Tam tai chia ra làm hai phần là: đại tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió. Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.</span></b></span></div><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b> </b></span><br />
<div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Bởi con người có tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra thủy tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. Tâm nầy mỗi ngày càng một khuếch đại ra và khi đến một mức độ nhất định, nó sẽ hình thành đại tai kiếp.</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới. </span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, tức gồm Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm. Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, là gồm Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên. Cho nên nói: </span></b></span></div><blockquote><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"><i> Cõi Trời Lục Dục có năm suy,<br />
Cõi Trời Tam Thiền có phong tai,<br />
Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng,<br />
Không bằng về Tây rồi trở lại.</i></span></b></span></div></blockquote><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: navy;"> Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.</span></b></span></div><div align="justify"><span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: red;"> Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1985</span></b></span><br />
<span class="Apple-style-span" style="color: navy; font-family: inherit;"><b><span style="color: red;">Nguồn : http://www.dharmasite.net/KhaiThi6.htm</span></b></span></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-70308160252595829762011-05-09T21:12:00.000-07:002011-05-09T21:12:03.798-07:00Thử Luận Về Những Cống Hiến Của Hòa Thượng Tuyên Hóa Đối Với Nền Phật Học<blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><strong><span style="color: navy; font-family: Tahoma; font-size: small;">Trần Do Bân</span><span style="font-family: Tahoma; font-size: medium;"> </span></strong><img border="0" height="23" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1.gif" width="76" /></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial; font-size: small;"><span style="color: red;">Dịch từ nguyên bản Hoa Ngữ : <b>Thí Luận Tuyên Hóa Lão Hòa Thượng Đích Phật Học Cống Hiến</b></span><b> </b><span style="color: red;"><img border="0" height="16" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan2.gif" width="206" /> đăng trên nguyệt san Vajra Bodhi Sea từ số tháng 6, 1996 đến số tháng 10, 1997.</span></span></div></blockquote><div align="center"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /> <img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /> <img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /></span></div></blockquote><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Mục Lục:</span></b></div><div align="justify"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1" style="text-decoration: none;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương Thứ Nhất: Lời Giới Thiệu</span></a></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-size: small;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1a" style="text-decoration: none;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Phần 1: Động Cơ Nghiên Cứu</span></a><span style="color: navy; font-family: Arial;"><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1b" style="text-decoration: none;">Phần 2: Chọn Lựa Tài Liệu</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1c" style="text-decoration: none;">Phần 3: Phương Pháp Nghiên Cứu và Mục Tiêu Dự Định</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1d" style="text-decoration: none;">Phần 4: Tóm Tắt Toàn Bộ Luận Án </a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1e" style="text-decoration: none;">Phần 5: Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa</a></span></span></div></blockquote><div align="justify"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2" style="text-decoration: none;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương Thứ Hai: Chánh Pháp</span></a></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-size: small;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2a" style="text-decoration: none;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Phần 1: Chánh Pháp và Mạt Pháp</span></a><span style="color: navy; font-family: Arial;"><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2b" style="text-decoration: none;">Phần 2: Anh Linh và Sự Siêu Độ</a></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2c" style="text-decoration: none;">Phần 3: Chay Thuần Khiết và Chay Giả Mặn</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2d" style="text-decoration: none;">Phần 4: Khí Công và Tà, Chánh</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2e" style="text-decoration: none;">Phần 5: Quy Y và Phong Bì Đỏ</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2f" style="text-decoration: none;">Phần 6: Luôn Mặc Áo Giới và Ăn Ngày Một Bữa</a></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#3" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Ba: Giảng Kinh</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#4" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Tư: Lão Tử và Trang Tử</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#5" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Năm: Sanh Tử</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#6" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Sáu: Bát Nhã</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#7" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Bảy: Thần Dị</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#8" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Tám: Viên Tịch</a><br />
<a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#9" style="text-decoration: none;">Chương Thứ Chín: Kết Luận</a></span></div><div align="center"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /> <img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /> <img border="0" height="25" src="http://www.dharmasite.net/graphics/bullet1.gif" width="25" /></span></div><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="1"></a>Chương Thứ Nhất: Lời Giới Thiệu</span></b></div><div align="justify"> </div><blockquote><div align="justify"><b><a href="" name="1a"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phần 1: Động Cơ Nghiên Cứu</span></b></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Từ năm 1989 khi tôi quy y với Hòa Thượng Tuyên Hóa và trong suốt sáu năm kế tiếp, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Hòa Thượng sẽ rời bỏ cõi Ta Bà này sớm như vậy. Phải chăng do chúng sanh chúng ta bạc phước cho nên Đại Sư Ấn Quang, Đại Sư Hoằng Nhất, Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân, Đại Lão Hòa Thượng Quảng Khâm, cùng nhiều bậc cao tăng đã theo nhau viên tịch, và luôn cả người mà Lão Hòa Thượng Hư Vân đích thân trao truyền Pháp mạch là ngài Tuyên Hóa cũng chẳng nán lại lâu hơn nữa? Điều này khiến cho tôi không khỏi không ngớt ngậm ngùi thương tiếc.</span></div><a name='more'></a><br />
<div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Những người đã biết Hòa Thượng đều biết rằng Ngài suốt đời nghiêm trì hạnh nguyện "giữa ngày ăn một bữa, tối ngủ không nằm" và thực hành Sáu Đại Tông Chỉ. Đặc biệt trong thời Mạt Pháp nhiễu nhương, Hòa Thượng lại càng là biểu hiệu vững chắc của Chánh Pháp, và là ánh sáng soi đường cho chúng sanh. Hòa Thượng không sợ sự hủy báng của loài ma - đến đâu Ngài cũng xiển dương Kinh Lăng Nghiêm, tuyên giảng Chánh Pháp, phá tà hiển chánh. Sau khi Hòa Thượng nhập Niết Bàn, tôi muốn tổng hợp và quy nạp những lời nói và việc làm, cũng như những điều không nói và không làm trong suốt cuộc đời của Ngài, mục đích là để cho người đời nhân đó mà có được "Trạch Pháp Nhãn", có thể phân biệt tà chánh, đúng sai. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể ngăn chặn đà suy vi của Phật Giáo, giữ cho Phật Giáo khỏi bị nhận chìm bởi tà thuyết của ngoại đạo. Tôi tin rằng tất cả các Phật tử đều không muốn thấy chuyện đó xảy ra.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Những cống hiến trong suốt cuộc đời của Hòa Thượng cho nền Phật Học đã được các đệ tử của Ngài sưu tập rất chi tiết, đặc biệt là trong bộ kỷ yếu "Tuyên Hóa Lão Hòa Thượng Truy Tư Kỷ Niệm Truyền Tập” I và II mới xuất bản gần đây nhất. Những tập sách này, nói chung, đã giới thiệu quan điểm của Ngài về vấn đề giáo dục, phiên dịch kinh điển, hoằng dương Phật Pháp, chế độ Tăng Già, tinh thần yêu nước yêu dân, luân lý đạo đức, đoàn kết Đại Thừa và Tiểu Thừa, dung hợp tất cả các tôn giáo, v. v...một cách tường tận; do đó ở đây sẽ không tra cứu bình luận lại nữa. Trọng tâm nghiên cứu của văn bản này là những lời dạy của Hòa Thượng về như thế nào mới là chánh tín chân chánh của Phật Giáo, thế nào mới là Chánh Pháp, cùng các chứng cớ đằng sau những lời giảng giải kinh điển của Ngài. Đó chính là động cơ nghiên cứu của văn bản này.</span></div><div align="justify"> </div><blockquote><div align="justify"><b><a href="" name="1b"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phần 2: Chọn Lựa Tài Liệu</span></b></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Các tài liệu dùng trong văn bản nầy chủ yếu lấy từ<a href="http://www.bttsonline.org/" style="text-decoration: none;"> các sách do Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới</a> tại Hoa Kỳ phát hành; cũng như từ nguyệt san của Vạn Phật Thánh Thành (Kim Cang Bồ Đề Hải - Vajra Bodhi Sea), nguyệt san Trí Huệ Chi Nguyên xuất bản tại Cao Hùng, Đài Loan; các bài khai thị từ các băng ghi âm và các sách báo, tạp chí, bài tường thuật trong các chuyến hoằng pháp ở Đông Nam Á; nhiều bản tin từ các tập san hay báo chí; các bài nói chuyện của đệ tử của Hòa Thượng; các Pháp ngữ khai thị của lịch đại Tổ Sư; và các cảm ứng do tín chúng kể lại.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Về nội dung khai thị của Hòa Thượng, ngoại trừ những trường hợp quan trọng, có tính cách đặc thù, tôi mới ghi chú xuất xứ và thời điểm; còn lại thì đều có thể tìm thấy trong các sách và băng ghi âm do Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới phát hành.</span></div><div align="justify"><br />
</div><blockquote><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="1c"></a>Phần 3: Phương Pháp Nghiên Cứu và Mục Tiêu Dự Định</span></b></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận án này là lấy tất cả lời giảng từ sách và băng ghi âm khai thị của Hòa Thượng lúc sanh thời làm chuẩn, thêm vào đó là các lời giảng giải của Ngài về kinh điển cũng như về hành trạng của lịch đại Tổ Sư, nhằm phán đoán các vấn đề Phật Học một cách khách quan; rồi tiến tới tìm hiểu cách nhìn và khai thị của Ngài đối với Phật Học.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chúng ta đều biết rằng phần nhiều nội dung khai thị của Hòa Thượng là nhằm dùng phương tiện để hóa độ các đệ tử người Hoa Kỳ vào một thời điểm nào đó, bao gồm các vấn đề như thọ trì giới không giữ tiền hoặc không đụng đến tiền bạc (trì ngân tiền giới), ăn ngày một bữa, không sát sanh, không phá thai, không đốt giấy vàng bạc, giáo dục nam nữ, v.v... Hòa Thượng đã vượt hàng ngàn dặm để mang Phật Pháp đến Hoa Kỳ, với hy vọng lập nên một chế độ "Phật Giáo như Pháp.” Vì lý do đó, lắm lúc những lời khai thị của Ngài nghe có vẻ “lạnh lùng, không tình cảm,” thậm chí có đôi khi khiến người ta không chấp nhận được và nghĩ rằng Ngài chỉ một mực phê bình người khác; mà không chịu hiểu là Ngài đã tốn biết bao tâm huyết để giáo hoá các chúng sanh cang cường, căn cơ hạ liệt, và đằng sau những lời lẽ nghiêm khắc đó của Ngài ẩn chứa biết bao "máu và nước mắt"!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng đã từng nói: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Tôi đến đây là để chuẩn bị giáo hóa người Hoa Kỳ. Đối tượng giáo hóa của tôi là người Hoa Kỳ, không phải người Trung Hoa. Người Trung Hoa chỉ là phụ thôi.<br />
Muốn tôi lên trời, cũng chẳng khó; giáo hóa người Hoa Kỳ mới là khó nhất.<br />
Muốn tôi chui xuống đất, cũng chẳng khó; giáo hóa người Hoa Kỳ mới là khó nhất.<br />
Muốn gà trống đẻ trứng, cũng chẳng khó; giáo hóa người Hoa Kỳ mới là khó nhất.” </span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Từ đó chúng ta có thể nhận thức được quyết tâm giáo hóa người Hoa Kỳ của Hòa Thượng. Tuy rằng đó là một công việc vô cùng khó khăn, thế nhưng, cuối cùng Hòa Thượng đã làm được. Ngài đã lập kỷ lục về sự hiện diện của Tăng tướng và kiến tạo những đạo tràng với chế độ Tăng Già “như Pháp” ngay tại đất nước Hoa Kỳ.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ở đây cũng kỳ vọng rằng trong tương lai, tinh thần Phật Giáo chân chánh này sẽ tiếp tục được duy trì tại các nước phương Tây. Đây là lời kêu gọi ý thức "Phật Giáo hưng vong, nhân nhân hữu trách,” để Chánh Pháp được mãi mãi tồn tại trong nhân gian; và đó cũng chính là mục tiêu của văn bản nầy.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
</span></div><blockquote><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="1d"></a>Phần 4: Tóm Tắt Toàn Bộ Luận Án </span></b></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Bản luận án này gồm có chín chương. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương đầu tiên là <b>"Lời Giới Thiệu." </b></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ hai là <b>"Chánh Pháp"</b>, được chia làm năm tiểu mục; chủ yếu là thảo luận các vấn đề về Chánh Pháp, Mạt Pháp, anh linh (linh hồn của trẻ con), ăn chay, khí công, phong bì đỏ, mặc giới y, và các đề tài khác, lấy những lời khai thị của Hòa Thượng để làm chuẩn, và trích dẫn thêm những chứng minh từ các kinh điển; mục đích chính là phá tan một số lý luận có tính cách “ngoại đạo theo Phật, có vẻ đúng mà sai” (lý thuyết từ những tôn giáo khác xen lẫn với Phật Giáo để trở thành một thứ có vẻ như Phật Giáo, nhưng thực chất thì không phải.)</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ ba là <b>"Giảng Kinh"</b>, giới thiệu các kinh điển Hòa Thượng đã giảng, cũng như những công trình mà tôi mệnh danh là "ba cuốn cẩm nang" (tam quyết) của Ngài: Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sớ Giải, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, và Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ tư là <b>"Lão Tử và Trang Tử"</b>, đem phương thức khai thị "chánh ngôn nhược phản" (lời dạy mang ý nghĩa ngược lại) của Hòa Thượng phối hợp với học thuyết của Lão Tử, để độc giả càng hiểu rõ hơn về phương thức “thân giáo” và “ngôn giáo” của Hòa Thượng, thì mới không đến nỗi hiểu lầm dụng ý khổ tâm khai thị của Ngài. Đây chính là tinh thần "Đại Từ Đại Bi, gần như tàn nhẫn.”</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ năm là <b>"Sanh Tử"</b>, phân tích gốc rễ của sanh tử và tiến thêm một bước thảo luận về vấn đề nam nữ. Đây là một vấn đề mà suốt đời Hòa Thượng không ngừng nhấn mạnh, bởi vì “vạn ác dâm vi thủ” (dâm dục là điều ác lớn nhất trong tất cả các điều ác). Do đó chương này có lẽ cũng khá “khó tiếp nhận” một chút!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ sáu là <b>"Bát Nhã"</b>, giới thiệu những lời đối đáp nhạy bén, sâu sắc của Hòa Thượng trước các câu hỏi của tín chúng. Những lời này có thể giúp người ta được khai mở "trí huệ của tự tánh"; bởi:</span></div><i><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thấy sự, hiểu rõ, vượt thế gian,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thấy sự, mê lầm, mãi chìm đắm.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Lời thô, lời tế nhị,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="font-size: small;"><span style="color: navy;">Đều về đệ nhất</span> </span></span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">nghĩa!</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">(Kiến sự tỉnh sự, xuất thế gian,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Kiến sự mê sự, đọa trầm luân,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thô ngôn cập tế ngữ,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Giai quy đệ nhất nghĩa.)</span></div></blockquote></i><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
Chương thứ bảy là <b>"Thần Dị"</b>, nêu lên ba “thần tích” của Hòa Thượng, đồng thời nói rõ kiến giải phân biệt của Ngài về thần thông, và làm sáng tỏ những ngộ nhận của ngoại giới đối với thần thông.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ tám là <b>"Viên Tịch"</b>, nói rõ các "nhân duyên" khác nhau của lịch đại Tổ Sư thị hiện lúc lâm chung và viên tịch; đồng thời đề xuất rằng “thần tích” cùng “đoan tướng” không hẳn là biểu hiện của sự thành tựu. Sự thành tựu chân chánh của một người phải được quyết định qua sự cống hiến và tu trì trong suốt cuộc đời, cũng như sự quan tâm về chúng sanh của người đó. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chương thứ chín là<b> "Kết Luận"</b>, mô tả Hòa Thượng đã quan tâm về chúng sanh như thế nào, giải quyết vấn đề giáo dục và phiên dịch kinh điển ra sao, đồng thời Ngài đã làm thế nào để dung hợp Phật Giáo Nam Truyền với Bắc Truyền.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trên đây là đại cương của toàn bộ luận án, thành kính xin được chỉ giáo.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
</span></div><blockquote><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="1e"></a>Phần 5: Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa</span></b></div><div align="center"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"> * <a href="http://www.dharmasite.net/khaithi3.jpg" style="text-decoration: none;"><span style="font-family: Tahoma;">Trích Khai Thị 3</span></a></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hoà Thượng vốn họ Bạch, tên tục là Ngọc-Thư, Pháp danh là An-Từ, tự Ðộ Luân, và Tuyên Hóa là Pháp hiệu do Lão Hòa Thượng Hư Vân đặc biệt tặng cho khi Ngài thọ lãnh sứ mạng làm người kế thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền Tông Quy-Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song-Thành, tỉnh Tùng-Giang, Ðông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Thân phụ Ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông; thân mẫu thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được tám người con, năm trai ba gái, và Ngài là út.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thân mẫu Ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy Ðức Phật A-Di-Ðà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng khắp thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh Ngài. Ngài vừa ra đời liền khóc suốt ba ngày đêm, chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta Bà này vậy.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm Ngài mười một tuổi, một hôm cùng chúng bạn dạo chơi, Ngài chợt trông thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết nên liền nói : "Ðứa bé đã chết rồi!" Song Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy : <em>"Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giầu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả !"</em> Ngài lại thưa : <em>"Như vậy, có cách gì thoát khỏi sự chết chăng ?"</em> Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng : <em>"Chỉ có cách tu Ðạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòng luân hồi, thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh."</em></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất gia tu Ðạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy :<em>"Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý! Song, nay ta đã già, mà các anh chị con đều đã tự lập; vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chưa muộn."</em></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngài vâng lời cha mẹ. Sau đó, hằng ngày Ngài thường theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha mẹ. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên Ngài hướng về trời, đất, vua, sư trưởng mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã làm. Nhận thấy những người ác thật đáng thương, Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của họ được giảm bớt và họ sớm biết hối cải. Mỗi ngày Ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày Ngài đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngày lại ngày, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Ðức Phật vậỵ Chẳng bao lâu tiếng hiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều gọi Ngài là<em>Bạch Hiếu Tử</em> (người con chí hiếu họ Bạch).</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm Ngài mười chín tuổi thì gặp phải tang thân mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, Ngài đến Chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau đó, Ngài về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà . Rất nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng. Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của Ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày. Song, khi tới nơi mọi người thấy túp lều tranh vẫn bình lặng, và Ngài thì an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Có lần Ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây Phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài mới choàng tỉnh, sực nhớ rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, khoảng 1.200 năm về trước!</span></div><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><div align="justify"><img alt="With the Elder Master Hsu Yun at Nanhua Monastery in China, 1948" height="320" src="http://www.dharmasite.net/images/life4_sf.jpg" width="215" /></div><div align="center"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;">Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa</span></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm 1946, sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, tình trạng giao thông trong nước đã bắt đầu dễ dàng trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để đến Chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Ðông, đảnh lễ Lão Hòa Thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Ðà để thọ Cụ Túc Giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, Ngài đã được bái kiến Lão Hòa Thượng Hư Vân, bậc Ðại Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói : <em>"Như thị, như thị!"</em> và Ngài cũng đáp lại <em>"Như thị, như thị !"</em> Biết Ngài là bậc 'pháp khí', Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng. Lão Hòa Thượng Hư Vân đã bày tỏ sự tin tưởng vào Ngài qua bài kệ:</span></div><i><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tuyên Quy diệu nghĩa chấn gia thanh,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hóa thừa Linh nhạc Pháp Đạo long,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Độ dĩ tứ lục truyền tâm ấn,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Luân triền vô hưu tế khổ luân.</span></div></blockquote></i><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật Chùa Nam Hoa.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm 1949, Ngài từ giã Chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Ðại Lục qua Hương Cảng tị nạn và cần sự giúp đỡ của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, sáng lập Phật Giáo Giảng Ðường, Chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu Ðạo, vì Pháp quên mình. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng Tuyên Hóa vốn nuôi chí nguyện đem Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm 1961, Ngài sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương Ðạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là <em>Mộ Trung Tăng</em> (nhà sư trong phần mộ), và <em>Hoạt Tử Nhân</em> (người đã chết nhưng còn sống).</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Ngài nói :"Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh." Mùa hè năm ấy, Ngài chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn, v. v.. Năm 1971, Ngài giảng bộ Kinh tối cao của Ðại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, Ngài thành lập <em>Vạn Phật Thánh Thành</em>, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Mỹ Quốc. Tại Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng Ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chánh tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam ,Bắc Tông. Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam Ðàn Ðại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Ðại Thừa và Tiểu Thừa hợp lực chủ trì.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài đã làm bài kệ nói lên quyết tâm của mình:</span></div><table border="0" style="width: 835px;"><tbody>
<tr><td width="573"><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Đống tử bất phan duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngạ tử bất hóa duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Cùng tử bất cầu duyên.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Bao định ngã môn tam đại tông chỉ.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"> </div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Xả mạng vi Phật sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tạo mạng vi bổn sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chánh mạng vi Tăng sự.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tức sự minh lý, minh lý tức sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền.</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tạm dịch:</span></div><blockquote><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Dù rét chết, không phan duyên;</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Dù đói chết, không van nài;</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Dù nghèo chết, không cầu cạnh.</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Tùy duyên, không đổi; không đổi, tùy duyên;</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Ba Tông Chỉ ấy, ta phải giữ gìn.</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><br />
</div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Xả thân vì Phật sự,</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Tạo mạng vì bổn sự,</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Chánh mạng vì Tăng sự.</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Hiểu sự, rõ lý; rõ lý, hiểu sự;</span></em></div><div style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><em><span style="color: purple; font-family: Tahoma;">Lưu hành mạch phái Tổ Sư tâm truyền.</span></em></div></blockquote></td><td bgcolor="#66FF99" width="248"><div align="center" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><a href="http://www.dharmasite.net/images/ShrFu_sf.jpg" style="text-decoration: none;"><img alt="Scan053, May 06, 2006.jpg (211862 bytes)" border="0" height="339" src="http://www.dharmasite.net/images/ShrFu_sf_small.jpg" width="246" /></a></div><div align="center" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Tahoma; font-size: x-small;">Hai câu đối sau lưng Hòa Thượng:</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Đống tử bất phan duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Ngạ tử bất hóa duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Cùng tử bất cầu duyên.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Bao định ngã môn tam đại tông chỉ.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"> </div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Xả mạng vi Phật sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Tạo mạng vi bổn sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Chánh mạng vi Tăng sự.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Tức sự minh lý, minh lý tức sự,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;">Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền.</span></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify"> </div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm 1980, Ngài thành lập Trung Tâm Cứu Tế Nạn Dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn nghệ và Anh ngữ, đồng thời giúp tái định cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Cambodia. Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Với tinh thần "vì Pháp quên mình," Hòa Thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật Pháp. Ngài được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống khổ hạnh và nghiêm trì Giới Luật của Ngài. Trong thời Mạt Pháp mà nhiều người không tôn trọng Giới Luật này, Ngài đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ không nằm.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Bình sanh, Ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng sanh. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở nước Cuba vào năm 1962 đã xảy ra không bao lâu sau khi Ngài đến Hoa Kỳ; Ngài đã tuyệt thực năm tuần lễ để hồi hướng cho nền hòa bình thế giới. Vào dịp Ngài du hành Ðài Loan năm 1989, Ngài đã nhịn ăn ba tuần lễ để hồi hướng cho dân chúng Ðài Loan. Sau đó, Ngài lại đi hoằng Pháp tại nhiều nước Châu Âu.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Mặc dầu tuổi Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết Pháp và giảng luận kinh điển Phật Giáo, giương cao ngọn đèn rực rỡ của trí huệ để soi đường cho chúng sanh đang chìm đắm trong đêm tối của thời đại Mạt Pháp này. Chính trong lúc Ngài đang bệnh để gánh chịu khổ nạn cho chúng sanh, Ngài vẫn kiên trì tiếp tục đại nguyện diễn dịch kinh điển Phật Giáo.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngày 7 tháng 6 năm 1995 (nhằm ngày 10 tháng 5 năm Ất Hợi), Hòa Thượng Tuyên Hóa thị hiện viên tịch tại Los Angeles, Mỹ Quốc; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu : <em>(1) tiếp tục hoằng dương Phật Pháp, (2) phiên dịch kinh điển Phật Giáo, và (3) hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.</em> </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Vâng theo di huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm Ngài viên tịch. Ngày 12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, kim quan của Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Tại đây Ðại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7, và sau Thánh Lễ Trà Tỳ, tro cốt của Ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của Ngài:</span></div><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><img border="0" height="243" src="http://www.dharmasite.net/images/master_a.jpg" width="208" /></div><div align="center" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial; font-size: x-small;"><span style="color: red;"> </span><span style="color: navy;"> <em>"Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng !"</em></span></span></div><div align="center" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;">Hòa Thượng Tuyên Hóa</span></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify"> </div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><em>"Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không!"</em></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Dù cho Ngài không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này, nhưng công đức hoằng Pháp tại Tây Phương, phiên dịch kinh điển, thiết lập đạo tràng và học đường của Ngài lúc còn tại thế đã gieo hạt giống Bồ Ðề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp dân chúng Tây Phương. Những dấu ấn đó của Ngài sẽ không bao giờ phai mờ với thời gian !</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa Thượng Tuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới long trọng tổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa Thượng Về Các Ðạo Tràng Chi Nhánh. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn của Ngài : <em>"Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng !"</em></span></div><div align="justify"> </div><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="2"></a>Chương Thứ Hai: Chánh Pháp</span></b></div><div align="justify"> </div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong các kinh điển thì không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết ước định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mạt Pháp là 10.000 năm. Trong thời Chánh Pháp (chánh có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đã diệt độ, nhưng Pháp nghi vẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị--đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiên cố". Trong thời Tượng Pháp (tượng có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít; thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "tự miếu kiên cố". Trong thời Mạt Pháp (mạt có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "đấu tranh kiên cố". Đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ "Chánh, Tượng và Mạt" của Phật Pháp.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thế nhưng, Hòa Thượng định nghĩa về Chánh Pháp như sau: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Quý vị thành thật tu hành, không ham hư danh giả lợi, không tham của cúng dường — đó chính là Chánh Pháp trụ thế. Nếu mọi người xuất gia đều có thể giữ giới không đụng đến tiền bạc, đều có thể ngồi Thiền, có thể ngày ăn một bữa lúc giữa trưa, có thể luôn luôn mặc giới y và nghiêm trì giới luật, thì đó là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!"</span></div></blockquote><table border="0"><tbody>
<tr><td width="70%"><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thậm chí Hòa Thượng còn giảng nghĩa một cách đơn giản hơn nữa: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!".</span></div></blockquote></td><td width="30%"><div align="center"><a href="http://www.dharmasite.net/images/6DTC_a.jpg" style="text-decoration: none;"><img alt="6DTC_a.jpg (286904 bytes)" border="0" height="135" src="http://www.dharmasite.net/images/6DTC_a_small.jpg" width="180" /></a></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có chép: "Khi [Pháp] trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp." Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: "Chỉ có giáo pháp mà không có gì khác thì gọi là Mạt Pháp." Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần Nguyệt Tạng, và trong Kinh Pháp Diệt Tận. Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát nguyện của Thiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (Nam Nhạc Tư Thiền Sư Lập Thệ Nguyện Văn). Thiền Sư Huệ Tư đã tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đã chép lại toàn bộ Kinh Bát Nhã cùng nhiều bản văn khác. Ngài đã nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi Bồ Tát Di Lặc đến thế gian này. Đời nhà Tùy (589-618 SCN), Thiền Sư Tín Hành đề xướng "giáo pháp ba giai đoạn" (tam giai giáo) với Nhất Thừa là giai đoạn đầu tiên, Tam Thừa là giai đoạn thứ nhì, và Phổ Pháp (toàn bộ lời dạy của Đức Phật) là giai đoạn thứ ba.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong đời nhà Đường (618-905 SCN), Đại Sư Đạo Trác và Đại Sư Thiện Đạo có nói rằng đương thời là đã vào thời Mạt Pháp, và chủ trương "thời giáo tương ưng" (khế hợp giáo pháp với thời đại), khuyến khích người đời tu pháp môn Niệm Phật. Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, thì trong quyển 49 của Thập Tụng Luật, Đức Phật cũng đã nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Năm điều này là:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">1. <b>Tôn Trọng Chánh Giáo</b>. Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo pháp chân chánh mà tiến tu, xa lánh cái nhìn lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">2. <b>Chỉ Tức Sân Ác</b> (đình chỉ nóng giận và ác độc). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo luôn luôn thực hành hạnh nhẫn nhục, không nóng giận, danh tiếng về đức độ lan xa làm cho mọi người đều quay về và dốc lòng kính ngưỡng; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">3. <b>Kính Sư Thượng Tòa</b> (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục tòng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">4. <b>Ái Lạc Chánh Pháp</b> (trân quý Chánh Pháp). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo trân quý thâm sâu những điều pháp nghe được từ các bậc thượng tọa, trưởng lão kỳ cựu, và vui mừng thực hành theo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">5. <b>Thiện Hối Sơ Tập</b> (giải thích kỹ càng cho kẻ sơ học). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo phương tiện diễn nói pháp Đại Thừa một cách khéo léo, làm cho những kẻ mới bắt đầu học Phật Pháp có thể dựa vào để tiến tu trên đường Đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Vào thời Mạt Pháp chúng sanh không thể liên tục phân biệt đuợc chánh tà, đến nỗi nhiều người muốn vào cửa Phật nhưng đã vào lầm cửa mà tu hành. Đó là do họ thiếu "Trạch Pháp Nhãn." Mặc dầu trong thời Mạt Pháp, hiện tượng "mắt cá xen lẫn ngọc trai" trong cửa Phật không phải là ít, song nguyện lực của Hòa Thượng rất rõ ràng:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật Giáo có Chánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương. Đây là nguyện lực của tôi. Do đó, không quản khả năng giới hạn của mình, tôi đi khắp nơi tuyên thuyết Chánh Pháp và hành trì Chánh Pháp."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng có ý khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép: "Trong thời Mạt Pháp sẽ có mười hai vạn (120.000) vị Đại Bồ Tát trì Pháp, khiến cho bất diệt." Từ đó có thể biết được rằng nguyện lực "không cho phép có Mạt Pháp" của Hòa Thượng há chẳng phải chính là tâm đại từ đại bi của chư Như Lai hay sao?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng đã cảm khái rằng:</span></div><i></i><blockquote><i><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phật Pháp vị diệt, Tăng tự diệt,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Đạo đức ưng tu, nhân bất tu,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Lão thật chân thành chiêu vật cơ,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hư ngụy giảo hoạt thọ bao ưu.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Cử thế ngũ trược thanh thậm tiễn.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chúng sanh tam túy tỉnh vô thu,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ân cần ký ngữ Tăng thanh bối,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chấn hưng Phật Pháp tại Tỳ Kheo.</span></div></i></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tạm dịch:</span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Thành thật chân chánh, bị chế diễu,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Gian ngoa xảo trá, được tán dương.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Thế giới Ngũ Trựơc híếm thanh tịnh,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!</span></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Phật Giáo không thể có 99%--nếu chỉ một phần nhỏ trong Phật Giáo là giả dối, thì đó không còn là "Chánh Pháp" nữa! Do đó chúng ta phải phân biệt thật rõ ràng, bởi vì trong các chùa chiền đều có cả "tà pháp và ngoại đạo". Phật Giáo có câu: "Thà cả ngàn năm chẳng vãng sanh, còn hơn một ngày trong ma đạo". Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhãn của "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (trong Kinh Lăng Nghiêm) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính mình lại không hay không biết!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Nhân đây, người viết xin giới thiệu bảy điểm rất quan trọng trong việc phân biệt chánh tà:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">1. Vị Thầy lấy việc trao đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">2. Vị Thầy khơi dậy lòng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng mình có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hại chúng sanh và ăn thịt chúng sanh, còn nói rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có lòng hiếu kỳ; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">6. Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ý nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó là tà.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không có căn bản chân thật về đạo lý Phật Giáo; đó là tà.</span></div></blockquote><div align="justify"><br />
</div><blockquote><div align="justify"><b><span style="font-family: Arial;"><a href="" name="2a"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-size: small;">Phần 1: Chánh Pháp và Mạt Pháp</span></span></b></div><div align="justify"> </div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Một lần nọ, có một Phật tử hỏi: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Hòa Thượng thường nói rằng:</span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Chân thật nhận lỗi mình,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Không bàn lỗi người khác,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Lỗi người là lỗi mình,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Đồng thể tức Đại Bi.</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thế nhưng tại sao Hòa Thượng lại thường công khai phê bình, bàn luận thị phi về người khác và đăng trong Kim Cang Bồ Đề Hải (Vajra Bodhi Sea - nguyệt san của Vạn Phật Thánh Thành)? Như vậy phải chăng là nói một đường, làm một nẻo?"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng trả lời: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Người sẽ bị đọa địa ngục là tôi chứ không phải ông. Nếu những gì tôi nói là đúng sự thật, thì đó không phải là thị phi; nếu không đúng sự thật, thì tôi chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục. Nếu có kẻ nói rằng bậc đại tu hành không bị nhân quả, thì quả báo là 500 đời làm thân chồn (hồ ly).</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Nếu tôi chối bỏ nhân quả--gọi đen là trắng, gọi trắng là đen, nói đúng thành sai, nói sai thành đúng - nói những điều không đúng thật, thì tôi sẽ bị đọa địa ngục Bạt Thiệt (rút lưỡi). Nếu tôi không nói sai, thì tôi không có tội.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Mạnh Tử có nói: ‘Ta há phải thích biện luận đâu! Ta cũng bất đắc dĩ đó thôi! Nếu cái đạo của Dương Tử và Mặc Tử không tắt đi, thì cái đạo của Khổng Tử chẳng được sáng rỡ vậy!’ <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2a1" style="text-decoration: none;">(1)</a></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tại sao tôi thích nói 'thị, phi’ (điều đúng và điều sai)? Vì trong Phật Giáo có quá nhiều 'thị, phi’!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Lại còn nào là hắc giáo (giáo phái đen), bạch giáo (giáo phái trắng), hoàng giáo (giáo phái vàng), hồng giáo (giáo phái đỏ) ... thảy đều biến thành nhiều màu sắc khác nhau, đến hoa cả mắt. Ngay cả đen cũng không biết mình là đen, trắng cũng chẳng hay mình là trắng. Cho nên, tôi muốn nói ra những điều mà người khác không dám nói; nếu quý vị có ai không hài lòng thì cũng không sao, tôi cũng chẳng bận tâm. Tôi là kẻ chuyên môn đả phá tà tri tà kiến của người khác!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Từ đoạn nói chuyện trên, chúng ta có thể thấu rõ được tâm từ bi bao la không đành lòng thấy chúng sanh bị đau khổ của Hòa Thượng. Đó gọi là "đại từ đại bi, gần như tàn nhẫn", và chính là thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh của bậc Bồ Tát. Hòa Thượng có lần viết bài thơ nói lên quyết tâm của Ngài:</span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Tôi muốn nói lời thật,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Không sợ bị đánh, chửi.</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Giết tôi, tôi chẳng sợ,</span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Giải thoát, có gì ngại?"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng Hư Vân đã nói: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Nho sĩ là tội nhân của Khổng Tử; Tăng sĩ là tội nhân của Phật." </span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngài còn nhấn mạnh: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy; font-size: small;">"Kẻ hủy diệt Phật Pháp chính là giáo đồ của Phật Giáo, chứ không phải các giáo phái khác. Kẻ làm cho Lục Quốc diệt vong chính là Lục Quốc, chứ không phải nhà Tần. Kẻ làm suy sụp nhà Tần chính là nhà Tần </span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1*" style="text-decoration: none;">(1*)</a></span><span style="color: navy; font-size: small;">, chứ không phải Lục Quốc vậy."</span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi - như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế tục, cư sĩ ngồi trên tòa cao, v.v ... Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đã dùng tri kiến riêng của mình mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Kinh Lăng Nghiêm.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Lại có Pháp Sư Viễn Tham nói rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa và nhiều kinh khác, cũng như Đại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Đây chính là những hiện tượng của thời kỳ Mạt Pháp.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng đã nhiều lần lập lại lời huấn thị về việc bảo vệ và duy trì Chánh Pháp:</span></div><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><span style="font-size: small;"><div align="center"><a href="http://www.dharmasite.net/images/DSC06229.JPG" style="text-decoration: none;"><img alt="DSC06229.JPG (109883 bytes)" border="0" height="249" src="http://www.dharmasite.net/images/DSC06229_small.JPG" width="172" /></a></div></span></td></tr>
</tbody></table><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy; font-size: small;">"T</span><span style="font-size: small;"><span style="color: navy;">rong Phật Giáo, tất cả kinh điển đều rất quan trọng, nhưng Kinh Lăng Nghiêm còn quan trọng hơn nữa. Phàm hễ nơi nào có Kinh Lăng Nghiêm, thì nơi đó có Chánh Pháp trụ thế. Khi Kinh Lăng Nghiêm bị mất đi, đó là dấu hiệu của thời kỳ Mạt Pháp. Khi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi có nói rằng: 'Vào thời kỳ Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt trước nhất. Sau đó dần dần các kinh khác cũng bị diệt theo.' Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là tháp miếu thờ Phật. Nếu Kinh Lăng Nghiệm là ngụy tạo, thì tôi sẵn sàng chịu đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn ở chốn địa ngục, không bao giờ được trở lại thế gian để gặp mọi người nữa! Người nào có thể học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, thì người đó mới là đệ tử chân chánh của Phật!"</span></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Trong quá khứ khi Ta là vị vua tên Hữu Đức, để hộ trì Chánh Pháp, Ta đã chiến đấu với những kẻ muốn hủy hoại Chánh Pháp, và đã thiệt mạng. Sau khi chết, Ta được sanh về cõi nước của Phật A Súc Bệ và trở thành đệ tử thượng thủ của Đức Phật đó. Này Ca Diếp! Những người hộ trì Chánh Pháp được quả báo công đức vô lượng như thế. Do nhân duyên hộ trì Chánh Pháp này, mà nay Ta được tướng hảo trang nghiêm và thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Pháp tự nó vốn không có "Chánh, Tượng, Mạt"; nhưng tâm con người thì có sự phân biệt về "Chánh, Tượng, Mạt". Theo Hòa Thượng, bất cứ khi nào còn có người dụng công tu hành, thì khi đó là Chánh Pháp còn đang trụ thế.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, thì đó là thời kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm, có phần "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" giảng về sát sanh (sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với phần "Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma, ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai phần này đều nói rất rõ ràng rằng khi nào không còn người giữ giới, thì khi đó là thời kỳ Mạt Pháp. Giới còn, tức là Phật Pháp còn vậy!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Vào năm 1990, trong một lần thuyết giảng tại Trung Tâm Lao Công tại Cao Hùng ở Đài Loan, Hòa Thượng đã khẩn thiết nói rằng: "Thời kỳ Mạt Pháp là do những người tại gia chỉ hộ trì cho một người xuất gia riêng lẻ mà tạo thành!". Vì sao lại như thế?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng giải thích rằng:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu 'Trạch Pháp Nhãn' nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ lui, và hộ luôn xuống địa ngục! Vào thời kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa, và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp, người ta lại không thích nếp sống của đại tùng lâm nữa. Mỗi người ở một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽ bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nỗi phải hoàn tục!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng hoàn toàn không phản đối việc xây chùa, nhưng chỉ vì con người ngày nay quá hưởng thụ, không biết lấy Pháp nghĩa và giáo dục (nghĩa lý Phật Pháp và đạo lý giáo dục) để hóa độ chúng sanh. Họ chỉ biết dùng "chùa lớn" để độ chúng sanh, cùng bày ra phương cách để được nổi tiếng và trở nên giàu có.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Cái nhìn của Hòa Thượng về việc xây chùa như sau: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Tạo chùa không bằng tạo người, tạo người không bằng tạo Phật. Tôi muốn làm một người thợ đúc tượng. Tôi muốn đúc nên những vị Phật sống, những vị Bồ Tát sống, những vị Tổ Sư sống. Tôi còn muốn làm cho tất cả chúng sanh trên toàn thế giới này đều biến thành những vị Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống luôn nữa! Tôi đả phá đây không phải là những ngôi chùa lớn, mà là các miếu thờ Thổ Địa, miếu thờ Thành Hoàng, miếu thờ của gia tộc. Khi những người ở chùa nhỏ dọn sang chùa lớn, thì tất cả có thể cùng nhau tu hành, như thế mới là nếp sinh hoạt của một đại tùng lâm. Vì sao ở chùa nhỏ thì không được tốt? Bởi vì ở đó thiếu sự gò bó, câu thúc; không cần phải "quán tự tại", mà có thể ăn tự tại, mặc tự tại, đi đứng tự tại, nên rất dễ quên đi việc tu Đạo. Hằng ngày chỉ biết phan duyên, mà tập khí nầy chính là vết thương chí mạng làm băng hoại Phật Giáo!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tôi hy vọng Phật Giáo sẽ ghi lòng tạc dạ những lời này và đừng tiếp tục "bịt tai ăn cắp chuông," dối gạt nhân loại nữa. Hiện nay, các dấu hiệu hỗn loạn trong Phật Giáo tại Đài Loan đã vô cùng nghiêm trọng, có thể nói là đến mức phải báo động rồi; thế nhưng, chẳng có người nào dám đứng ra lên tiếng kêu gọi; mà ai nấy chỉ trố mắt ngồi nhìn cảnh Phật Giáo đang đi dần về hướng diệt vong.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Cách ba bước là có một tịnh xá, đi năm bước là gặp một ngôi chùa lớn – mọi người đều ra sức tổ chức Pháp hội, siêu độ vong linh, làm lễ quán đảnh, truyền Pháp, xây chùa..., mà chẳng hay biết gì về việc hoằng dương giáo nghĩa, hướng dẫn chúng sanh làm thế nào để chấm dứt sanh tử! <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2a2" style="text-decoration: none;">(2)</a></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có Trạch Pháp Nhãn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện; chứ chẳng phải một mực chú trọng về việc xây chùa dựng miếu, tổ chức Pháp hội! Chúng ta có bao giờ tự hỏi rằng đằng sau những lời giáo huấn nghiêm khắc này của Hòa Thượng ẩn giấu biết bao máu lệ xót xa?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Như ý nghĩa trong câu “đản năng quang chiếu viễn, bất tích tự phần thân”, Hòa Thượng chỉ muốn ánh sáng từ ngọn đuốc trên tay Ngài soi sáng đuợc càng xa càng tốt, mà chẳng quan tâm đến việc mình bị phỏng! "Dầu gặp muôn vàn khó khăn, tôi vẫn giữ vững ý chí của mình." Đây là lời mô tả chân thật nhất về Hòa Thượng.</span></div><blockquote><div align="justify"><br />
</div><div align="justify"><b><span style="font-family: Arial;"><a href="" name="2b"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-size: small;">Phần 2: Anh Linh và Sự Siêu Độ</span></span></b></div><div align="center"> <span style="font-family: Tahoma; font-size: small;"><img border="0" height="95" src="http://www.dharmasite.net/images/chuongnho1.gif" width="119" /></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Với sự thịnh vượng hiện nay tại một vài quốc gia Phật Giáo, mọi người đều nhắm thẳng vào chữ "tiền," và từ đó nảy sinh ra ngành nghề siêu độ, điển hình là việc "cúng dường anh linh,” cầu siêu cho linh hồn của những đứa trẻ bị chết khi chưa ra đời. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Về vấn đề này, Hòa Thượng khai thị rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Việc này không thể gọi là "cúng dường" được, vì đó không phải là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nếu quý vị gọi đó là cúng dường,’ tức là đã rơi vào tà kiến vậy. Đó phải gọi là 'siêu độ'. Thứ oán này quá sâu rất khó siêu độ; bởi vì đó là món nợ tước đoạt sanh mạng (đoạt mạng trái), thì phải được trả bằng cách đền lại sanh mạng (đoạt mạng hoàn). Thế nhưng, nếu gặp được một vị chân tu không tham tiền thì các anh linh đó có cơ hội được siêu độ.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Phá thai là một vấn đề vô cùng quan trọng. Một trong những lý do hiện nay trên thế giới có quá nhiều hoài nghi, khó khăn, cũng như quá nhiều chứng bệnh nan y, là do sự phá thai. Quý vị hãy ngừng lại và suy nghĩ xem: Một sanh mạng chưa kịp chào đời đã trở thành một oan hồn; khắp nơi nhan nhản những hồn ma nhỏ bé phiêu bạt đòi mạng, thì theo quý vị, xã hội có thể an ninh được sao? Những hồn ma nhỏ bé này cần phải gặp được người có Đạo hạnh và không tham tiền thì mới được siêu độ."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong đoạn này Hòa Thượng đưa ra vấn đề là "oán này quá sâu", thật khó siêu độ, cần phải là bậc tu hành "không tham tiền" mới có thể "có cơ hội" siêu độ cho chúng. Do đó, mọi người nhất định phải đừng mê tín mà cho rằng dùng "tiền" để tạo nhiều công đức thì sẽ siêu độ “xong xuôi trót lọt" được. Nếu quý vị làm như vậy, thì đó là không hiểu nhân quả, đảo gốc thành ngọn. Bên cạnh đó, trong các kinh Phật cũng nhắc đi nhắc lại rằng "không được giết hại hoặc phá thai." </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ví dụ, trong Kinh Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni có chép: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Thế gian có năm điều khó diệt dầu có sám hối. Những gì là năm? 1) Giết cha mình; 2) giết mẹ mình; 3) giết thai chưa sanh; 4) làm thân Phật chảy máu; 5) phá hòa hợp tăng. Những ác nghiệp như thế, tội khó tiêu diệt."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Kinh Phật Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt có đoạn nói: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Có mười loại nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đoản mạng: 1) Tự mình làm việc giết hại; 2) khuyến khích kẻ khác làm việc giết hại... 7) hủy hoại thai tạng (tức là tự mình phá thai); 8) bảo kẻ khác hủy hoại (tức là khuyên người khác phá thai) ... Mười nghiệp kể trên mang lại quả báo đoản mạng." </span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngoài ra, trong Kinh Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng, Đức Phật nói: "Nếu kẻ nào cố ý phá thai và thai bị chết, kẻ đó đã phạm tội không thể sám hối được vậy."</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thật vậy, Hòa Thượng cũng có vì chúng sanh mà làm những buổi lễ siêu độ vong linh, nhưng Hòa Thượng chỉ nói một cách rất khiêm tốn rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Suốt đời tôi, tôi không bao giờ muốn tham gia việc chạy theo các lễ hội 'tụng kinh, sám hối, Phóng Diệm Khẩu, Thủy Lục Không,' bởi tôi không đủ đức hạnh--đạo không đủ để cảm động người, đức không đủ để giáo hóa người. Chính mình còn chưa siêu độ được mình, thì làm sao có thể đi siêu độ các vong hồn? Cho nên, tôi không dám ‘to gan’ đến thế!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Nhưng ngày nay, không những chỉ có các "trung tâm siêu độ vong linh" mọc lên rải rác khắp nơi, mà còn có "giá cả" ấn định tùy theo tình hình nữa. Ngay cả người tại gia cũng tham gia hành "nghề" nầy. Những người chuyên môn lấy việc siêu độ để kiếm tiền này thực sự là hàng ngoại đạo trà trộn vào ăn bám cửa Phật vậy!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng khai thị rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Bây giờ là thời kỳ Mạt Pháp, hàng 'bạch y’ ('những người mặc áo trắng', tức là người tại gia) tùy tiện thọ nhận đồ cúng dường của người khác. Người tại gia lại cũng tùy tiện tụng kinh cho người khác, làm lễ siêu độ cho người khác, thâu tiền của người khác, ‘dựa Phật mặc áo, dựa Phật ăn cơm’. Những kẻ tại gia mà lại có thể siêu độ người, thế thì ai sẽ siêu độ cho chính họ? Đừng nói là người tại gia, ngay cả người xuất gia mà tụng kinh, làm lễ sám, siêu độ vong linh để kiếm tiền, thì đều là có vấn đề cả!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Có thể thấy rằng thời Mạt Pháp, hàng bạch y siêu độ cho người là điều hoàn toàn không "như Pháp,” bởi vì sức công đức tu hành của người tại gia dù sao cũng có giới hạn, không thể nào đắc lực bằng so với người xuất gia tu hành thanh tịnh.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Vả lại, nghĩa vụ của người tại gia là hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, chứ không thích hợp để chủ trì Pháp hội siêu độ. Chính mình còn chưa độ thoát được sanh tử, thì làm sao mà cứu độ kẻ khác được chứ?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Còn về vấn đề siêu độ chân chánh thì vẫn là khởi sự từ chính mình trước, rồi sau đó nương nhờ sự gia trì của Tam Bảo và đức hạnh của vị Thầy mới được.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng khai thị nói: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Không nóng giận, không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi và không nói dối - hãy làm một con người tốt, không làm các điều ác, chỉ làm những việc lành; thì cha mẹ và tổ tiên của quý vị tự nhiên sẽ được siêu độ."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Qua đó có thể thấy rằng nếu chúng ta dụng công tu hành, không nóng giận, nỗ lực làm một con người tốt, thì một cách tự nhiên chúng ta sẽ có được vô lượng vô biên công đức. Và từ công đức đó, các vong linh sẽ đương nhiên được ích lợi mà giải thoát.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Phẩm Nghi Vấn của Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, có chép rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">"Niệm niệm không gián đoạn là 'công', tâm hành bình đẳng và ngay thẳng là 'đức'. Lại nữa, tu tự tánh là 'công', tu tự thân là 'đức'. Chư Thiện Tri Thức! Công đức phải thấy trong tự tánh, chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu được!” </span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Chẳng nhất định là phải có tiền hoặc tụng vài bộ kinh mới có thể được ích lợi. Có câu: "Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ”, tức là chính ngay lúc tự độ đó là mình đang độ người rồi, ngay lúc độ người chính là đang tự độ vậy — hai bên chẳng có sự phân biệt ai trước ai sau.</span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Phẩm Nghi Vấn của Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, còn chép rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Các chúng sanh trong tâm ta là tâm tà mê, tâm cuồng vọng, tâm bất thiện, tâm đố kỵ, tâm ác độc,... các tâm như thế đều toàn là chúng sanh, mỗi mỗi phải tự tánh tự độ, đây gọi là chân độ vậy!"</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Có lần có người thỉnh vấn Hòa Thượng rằng trong quá khứ mình đã giết hại hơn một vạn sanh mạng, như thế phải tụng Chú Vãng Sanh bao nhiêu biến mới hữu hiệu ?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng trả lời: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">"Nếu ông cắt đứt ái dục, thì chỉ trì một câu thôi thì sự linh ứng đã phi thường rồi; nếu ông chưa đoạn được ái dục, thì dù có tụng đến mười ngàn lần cũng không công hiệu!"</span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Đoạn dục" không gì khác hơn là dạy chúng ta hãy cắt đứt phiền não, dứt trừ vô minh, dẹp bỏ tất cả tư dục, ái dục, cùng tánh nóng giận. Nếu chúng ta có thể đoạn trừ tư dục và lòng tham lam, rồi lại đem cái tâm thanh tịnh để tụng Chú Vãng Sanh hoặc tụng kinh, thì đương nhiên sẽ có sự cảm ứng!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong quá khứ, Phật Giáo tại Trung Hoa thường khiến người ta có ấn tượng sai lầm, cho rằng đây là tôn giáo chuyên siêu độ vong linh người chết; và do đó Phật Giáo đã bị một số các phần tử trí thức bài xích, xem thường.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hai năm trước khi nhập Niết Bàn, Hòa Thượng đã từng thiết tha kêu gọi: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">"Phật Giáo tại nước Trung Hoa với các nghi thức Thủy Lục Không, Phóng Diệm Khẩu, làm Phật sự, siêu độ vong linh,... đã trở thành như một thứ 'hình dáng tiêu biểu' của Phật Giáo Trung Hoa. Họ không chịu ngừng lại để suy nghĩ rằng, nếu cứ tiếp tục như thế, họ sẽ dung dưỡng thành một đám dân lang thang vô nghề nghiệp, lây lất trong Phật Giáo để kiếm ăn! Thật đáng tiếc biết bao! Chỉ biết kiếm tiền bằng cách siêu độ vong linh!"</span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Thật ra, để siêu độ được vong linh, quý vị cần phải có căn cơ, có đức hạnh. Nếu quý vị có đức hạnh thì đừng nói là tụng kinh hay niệm chú, chỉ cần quý vị phán một câu: 'Hãy đi vãng sanh đi!' thì cũng đủ cho vong linh đó được vãng sanh về thế giới Cực Lạc rồi! Còn nếu quý vị đã không có đạo đức, lại còn không có một sự hành trì gì cả, thì tôi hỏi quý vị, quý vị dựa vào cái gì để siêu độ vong linh? Có thể nói như thế là mắc món nợ này với thí chủ, đồng thời còn làm cho các chế độ căn bản của Phật Giáo không tồn tại được nữa."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Đúng thế, Phật Giáo có được Tam Tạng Mười Hai Bộ Kinh - một bảo tàng trí huệ nhiều vô lượng vô biên như thế,- thế mà người ta không chịu khai phát giáo nghĩa trong đó, chỉ toàn là dụng công hời hợt bên ngoài. Đây quả thật là một việc rất đáng tiếc!</span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Ngoài ra, trong Phật Giáo còn có vấn đề "đốt tiền giấy" nữa. Thật ra, tục lệ đốt tiền giấy mới bắt đầu có từ đời nhà Hán, theo như lời của Vương Du, một học giả đời Đường nói rằng : "Từ nhà Hán trở đi, tang lễ có lệ chôn tiền; người đời sau dùng tiền giấy cúng cho ma quỷ"; có nghĩa là việc đốt tiền giấy trong tang lễ đã trở thành tục lệ. Bởi người Trung Hoa từ xưa đến nay đều tin rằng "con người chết rồi thì thành ma quỷ," cho nên nghĩ rằng ma quỷ cũng cần tiền như loài người vậy. Thế nhưng, đến ngày nay thì việc đốt tiền giấy trở thành một công cụ để siêu độ vong linh.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng dạy rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">"Tiền giấy một khi đem đốt thì thành tro; mà đã thành tro rồi thì làm sao có thể biết được nó còn có giá trị hiệu dụng hay không? Nếu nói rằng đốt rồi vẫn có hiệu dụng, như vậy người Tây Phương không đốt tiền giấy, thì chẳng lẽ họ đều trở thành những con ma nghèo xác xơ, phải đi xin ăn cả sao?!"</span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Có câu: 'Tây Phương không có quỷ nghèo, Đông Phương chẳng có thần giàu.’ Ma quỷ chỉ ăn cái 'tánh' của vật mà thôi; chứ chúng thật sự không cần tiền bạc và vật thực. Nếu quý vị có tiền, thì có thể dùng tiền đó làm việc công đức và hồi hướng cho vong linh; còn nếu mua những xe hơi giấy, máy bay giấy, lâu đài giấy, ... để đốt thì quả thật là hồ đồ đến cực điểm vậy!”</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Đến như việc dùng lửa để đốt tiền giấy, có thể là có liên quan với tôn giáo thờ thần lửa (hỏa giáo), tin tưởng rằng thần lửa có thể đem những đồ vật đã bị đốt thành tro chuyển giao cho quỷ thần.</span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong Ấn Độ Giáo Câu Phệ Đà, có vị thần A Kỳ Ni (kwerna -thần lửa) được cho là có khả năng nầy. Nói chung, trong Phật Giáo phải huỷ bỏ tập tục này thì mới tránh khỏi trở thành một thứ 'doanh nghiệp trá hình' của bọn con buôn!</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><b><a href="" name="2c"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-size: small;">Phần Ba: Chay Thuần Khiết và Chay Giả Mặn</span></b></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
<span style="color: navy;">Cùng với sự gia tăng gần đây về số người ăn chay đã xuất hiện thêm những tên món ăn mới lạ như gà chay, vịt chay, chim non chay, cá chay v.v... </span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng đã nói như sau về vấn đề này: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Những người ăn chay mà lại làm đồ chay giả thịt gà, giả thịt vịt hay giả cá ..., vẫn không thể quên mùi vị của thịt và luôn luôn muốn thưởng thức mùi vị này, dù cho ăn đồ giả cũng để đỡ thèm. Trong Phật Giáo nhất định phải cải thiện thói quen này; nếu không cải thiện thì dần dần sẽ không còn người xuất gia nào ăn chay nữa! Người ăn chay thì ngay cả cái tên thịt gà thịt vịt đều không nên đề cập đến, huống chi là nhìn ngó hình thù của loài súc sanh đó! Tôi hy vọng rằng mỗi Phật tử đều có được Trạch Pháp Nhãn, nhận ra nhân quả, và không bị vướng mắc trong nhân quả."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Nếu nhân địa không chân thật, thì quả sẽ cong vạy.". Mặc dầu những thức ăn này là những súc sanh giả, tuy nhiên, bên trong vẫn tồn tại mối liên hệ nhân quả hết sức vi tế. Hãy xem quyển 6 của Kinh Lăng Nghiêm, trong đó Đức Phật có nói rằng: "Này A Nan, Ta cho phép Tỳ Kheo ăn năm loại thịt thanh tịnh (ngũ tịnh nhục). Nhưng thịt này thật sự là do thần lực của Ta biến hóa ra, chứ căn bản không có mạng căn. Các ông những người Bà La Môn sống trong khí hậu quá nóng và ẩm, và trong vùng đầy cát và sỏi đá như vậy, rau cải không mọc được; do đó, Ta phải giúp cho các ông bằng thần thông và lòng từ bi. Do lòng từ bi to lớn nầy, những gì các ông ăn và nếm giống như thịt và gọi đó là thịt, song thật ra không phải vậy. Sau khi Ta nhập diệt, làm thế nào những kẻ ăn thịt của chúng sanh lại được gọi là đệ tử của Thích Ca ?</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Năm loại tịnh nhục" này chỉ là do thần thông của Đức Phật biến hóa ra; chúng vốn không có mạng căn. "Vì địa phương nơi người Bà La Môn các ông sinh sống khí hậu quá nóng và đất đai lại nhiều sỏi đá rau cải không sinh trưởng được do đó Ta mới "huyễn hóa tạo thành" năm loại tịnh nhục để các ông ăn" - đó cũng là trường hợp ăn 'thịt giả'. "Vì sao sau khi Phật diệt độ, những đệ tử bất tiếu của Ta đã ăn 'thịt thật' mà còn vọng xưng mình là đệ tử của Phật!.".</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phật có dự ngôn là sau này sẽ có đệ tử của Phật ăn thịt thật mà còn nói rằng đó là do Phật cho phép. Ngày nay các tiệm ăn chay khắp nơi dùng "thịt chay" như là một phương tiện để tiếp dẫn người ăn thịt trở thành ăn chay, nhưng như vậy họ có thể rơi vào vấn đề nhân quả "bất tịnh" vì có sự nguy hiểm trầm trọng là sau khi ăn đồ giả một thời gian, người ta lại muốn ăn "đồ thật"! ...<br />
<br />
Người ta không nên dồn năng lực vào chuyện thức ăn và đồ uống. Ăn no là đủ lắm rồi; không nên sanh tâm chấp trước vào hình dạng và mùi vị. Ngoài ra còn có vấn đề người ăn chay có ăn trứng được hay không. Hay là những kẻ ăn trứng được gọi là "người ăn chay giả mạo" và những người không ăn trứng là "ăn chay thuần khiết" ? Mặc dầu đây là câu hỏi mà mọi người đều có ý kiến riêng bởi vì "khó cho vị quan thanh liêm phán đoán chuyện nhà, khó cho Tổ sư phán đoán chuyện tôn giáo" (thanh quan nan đoán gia vụ sự, Tổ sư nan đoán tông giáo sự), chư Tổ và chư Tôn đức phần lớn đều có thái độ không chấp nhận về vấn đề ăn trứng. Ví dụ "Ăn trứng không thích hợp vì nó có sinh mạng và có chất độc". "Ăn trứng thì không được! Những kẻ tà kiến nói: 'Trứng không có thụ tinh thì ăn được', đừng có tin!" "Ăn bất cứ thứ gì có tri giác thì không được. Người ta không nên ăn trứng vì mặc dầu chúng không có tri giác nhưng chúng có sanh mạng."<br />
<br />
Tại đạo tràng của Hòa Thượng Quảng Khâm, Thừa Thiên Thiền Tự có quy định rõ: "Cấm không được mang theo các loại thịt và thức ăn mặn, thuốc lá, rượu và trứng ...". Hòa Thượng Sám Công ở Chùa Liên Nhân có nói trong một buổi thuyết pháp có thâu băng là "Không được ăn trứng gà."<br />
<br />
Và Hòa Thượng cũng có nói:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Quý vị nói người ăn chay có ăn trứng thì không sao ư? Đợi đến khi quý vị mang thân gà, lúc đó quý vị sẽ biết đó chính là lý do, có thể lần ra manh mối trực tiếp từ việc ăn trứng gà. Một số Phật tử ăn ba loại tịnh nhục và một số hoàn toàn ăn thịt. Nếu quý vị tham ăn và thích ăn đồ bổ dưỡng, sao lại hỏi tôi ? Nếu quý vị muốn ăn trứng, thì đó cũng như ăn thịt."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phần Ba của Kinh Kim Cang có tựa " Đại Thừa Chánh Tông" nói rằng: "Tôi phải làm cho tất cả chúng sanh - sanh từ trứng, từ thai bào, từ ẩm ướt, từ biến hoá... vào Niết Bàn vô dư để họ được diệt độ. Không lẽ trứng gà không phải là "sanh từ trứng" hay sao? Trong Hiện Thực Luận có nói : "Không thể ăn bất cứ loại trứng nào bởi vì trong đó có chủng tử". </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thật ra chúng ta cũng không cần tìm hiểu xem trứng là chay hay không chay, mà chỉ cần suy nghĩ về vấn đề này: Người ta có thể không ăn thịt gà, thit vịt, tôm, cua, đồ biển ..vậy mà chỉ một món trứng mà "không thể bỏ" hay sao? Ngoài ra, nếu một người ăn trứng đều đặn (không ăn gì ngoài trứng), thì e rằng sau một tuần có thể người đó sẽ bị nhiễm độc. Mặt khác nếu một người uống sữa (không có gì ngoài sữa), không phải chỉ một tuần, cho dầu đến một tháng, người đó vẫn bình an vô sự. Nếu quý vị không tin, thì cứ thử đi! Vấn đề không phải ở điểm trứng là chay hay mặn, mà là lòng tham đằng sau sự tham ăn của chúng ta.</span></div><div align="justify"><br />
</div><blockquote><div align="justify"><b><span style="font-family: Arial;"><a href="" name="2d"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-size: small;">Phần Bốn: Khí Công và Tà Chánh</span></span></b></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><br />
Ngày nay cả thế giới đều nói về khí công. Và sự nhiệt tình về khí công là một "ngành nghề mới". Có những kẻ xấu làm cho khí công trở thành "tà khí", bởi vì "khi người chánh thực hành tà pháp, tà pháp trở thành chánh; khi người tà thực hành chánh pháp, chánh pháp trở thành tà." Khí công trở thành công cụ "kiếm tiền" "phát thần thông". Bởi vì đã đi xa chánh đạo, khí công trở thành một loại quỷ công. Hòa Thượng đã nhận định về khí công như sau:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Khí công" là một danh xưng không phù hợp. "Khí" là không có tri giác cho nên nó căn bản không có "công", vì thế phải gọi là "thần công," 'quỷ công," "ma công", hoặc "yêu công". Thần công" tức là "thần nhi minh chi, tồn hồ kỳ nhân" có nghĩa là trong khi bảo trì chánh niệm, dùng tinh thần để cho thần sử dụng năng lực của mình. Do đó gọi là "thần công". Nhưng "thần công" vẫn liên hệ đến ý thức và chưa đến cảnh giới biến hóa rốt ráo; người đó vẫn còn chấp tướng. "Thần công" là thần chi phối khí, không phải khí chi phối thần. Khi thần công đến, người đó không nhảy lên nhảy xuống hoặc chạy lung tung, cũng không nói năng bừa bãi. Thần công tương đối hiền hòa. Khi "quỷ công" đến, người đó nhảy nhót, run rẩy, khóc cười. Đó là một "ngũ quỷ ban vận pháp" (phép vận chuyển năm con quỷ). Mấy con quỷ được thả lỏng và nhập vào thân người, làm người đó nói năng bậy bạ, bởi vì quỷ công vốn không có định tính và định lực.</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Còn "ma công" và "yêu công" thì đều chẳng biết lý lẽ, luôn kiêu ngạo và gây hại cho người, chuyên hành dâm dục, và tất cả bọn chúng là hiện thân của yêu ma quỷ quái.<br />
<br />
Những người có "khí công" chân chánh thì không nhảy nhót, khóc lóc kêu la, cũng không tham giàu có hưởng thụ hoặc tìm cách rêu rao quảng cáo. "</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng không phản đối khí công, chỉ khai thị rằng chúng ta cần phải có nhận thức chân chánh, cần phải có "Trạch Pháp Nhãn" (con mắt biết chọn pháp). Điều nầy nói lên "thần công, quỷ công, ma công, yêu công - đều gọi là khí công'. Bởi có chân, có giả, có chánh, có tà, nên cần có Trạch Pháp Nhãn".</span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Về vấn đề có liên quan đến "ngoại đạo trong Phật Pháp" <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2a3" style="text-decoration: none;">(3)</a>, đa số đoàn thể Phật Giáo không muốn công khai phân biệt tà và chánh, điều này giúp cho những kẻ "không chân chánh trong Đạo Phật và những hàng ngoại đạo" lợi dụng ngày một nhiều hơn. Với ý xấu và xảo quyệt, họ lừa gạt tiền bạc của kẻ khác và lừa người khác phạm những hành vi dâm dục - trong khi vẫn mặc áo của Phật và ăn cơm của Phật. </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tôi sẽ đưa ra hai vị có tên tuổi được nhiều người biết đến để làm thí dụ. Một vị là nữ đạo sư đạo Sikh ở Ẩn Độ. Bà ta tự xưng là "Phật tái thế đã khai ngộ" và đi truyền bá "Pháp môn Quán Âm - tức khắc khai ngộ và giải thoát ngay trong kiếp này". </span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Hòa Thượng đã nghiêm khắc chỉ trích:</span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"Nhiều kẻ bị bà ta làm cho lầm lạc chỉ vì tham lam. Khi quy y Tam Bảo, bài văn trong buổi lễ có nói rất rõ ràng 'Con thà xả bỏ thân mạng nầy quyết không quy y với thiên ma ngoại đạo.' Những điều bà ta nói ra đều là tà thuyết của thiên ma ngoại đạo, và tất cả đều nhằm mục đích dối gạt người, nếu quý vị tin những điều đó, quý vị thật ngu xuẩn, vô tri, và quý vị tự đào đường xuống địa ngục."</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Thật là một lời mạnh mẽ: "Tự đào đường đến địa ngục." Hòa Thượng không tự chế ra những lời này. Ngài luôn luôn "chỉ thẳng tâm người", lời nói ngắn gọn mà đích đáng, trúng vào điểm chánh <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#2a4" style="text-decoration: none;">(4)</a>, có thể phá tan vô minh và mê lầm của chúng sanh.</span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-size: 12pt;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Trong phẩm Cơ Duyên” của Kinh Lục Tổ (Kinh Pháp Bảo Đàn) có câu<span style="font-weight: bold;"><b> </b></span><strong><b><span style="font-family: Arial; font-weight: normal;">"Từ </span></b></strong>Đức Phật Oai Âm Vương về trước<b><span style="font-family: Arial; font-weight: normal;"><strong> </strong></span></b><strong><span style="font-family: Arial; font-weight: normal;"><b style="color: navy; font-size: 12pt; font-weight: normal;">th</b><b style="color: navy; font-size: 12pt; font-weight: normal;">ì</b><span> có thể được, </span></span><b><span style="font-family: Arial; font-weight: normal;">ừ </span></b></strong>Đức Phật Oai Âm Vương về sau, không thầy mà tự ngộ thì toàn là thiên nhiên ngoại đạo." <span style="font-size: 12pt;">Câu này có nghĩa là trước thời của Oai Âm Vương (vị Phật đầu tiên) thì có thể được (tự mình khai ngộ); thế nhưng, từ sau thời của Oai Âm Vương, nếu không được một vị thầy nào trao truyền Pháp môn và ấn chứng cho, mà lại tự mình ấn chứng cho rằng mình đã khai ngộ, thì đó đều là ngoại đạo thiên nhiên."</span></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: purple;"><span>Trong Kinh Lăng Nghiêm, phần Bốn Lời Dạy Về Tánh Thanh Tịnh, Đức Phật có nói rằng: "Cớ sao bọn trộm cắp kia lại mượn sắc phục của Ta, mua bán Như-Lai, lại nói rằng mọi nghiệp tạo ra đều là Phật Pháp? Chúng phỉ báng người xuất gia và xem các thầy Tỳ-Kheo đã thọ Cụ-túc Giới là hàng Tiểu-thừa. Do sự nghi ngờ và ngộ nhận mà vô lượng chúng sanh phải đọa địa ngục Vô-gián."</span></span><span><o:p></o:p></span><span style="color: navy;"><span style="color: navy;"></span></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Hòa Thượng có làm một bài thơ thật lý thú như sau:<o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Hồ đồ dạy hồ đồ,<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Một dạy hai chẳng hiểu,<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Sư phụ đọa địa ngục,<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Đệ tử cũng xuống theo.</span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Đây chính là những kẻ “phù Phật Pháp ngoại đạo” giả muợn danh nghĩa Phật Giáo mà đi khắp nơi để kiếm tiền, phan duyên, đem Phật Pháp ra mà buôn bán đổi chác. Họ cho rằng hút thuốc, uống rượu, cờ bạc, sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ … đều là Phật Pháp, mà chẳng biết giới luật là gì cả; thế là vô lượng chúng sanh bị mê lầm, ngộ nhận, phải đọa địa ngục Vô-gián.</span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Còn <span> </span>vị kia vốn là một “Thượng Sư,”một vị “Liên Sanh Hoạt Phật” (Phật Sống sanh từ hoa sen) với “thần thông quảng đại,” lại ăn thịt, uống rượu, và đùa giỡn với phụ nữ. Hòa Thượng đã phê phán về vị <span> </span>này như sau:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><i><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Ôi thời Mạt Pháp ! Thời Ác thế !<span><br />
</span>Chúng sanh phước bạc khó điều phục.<span><br />
</span>Hiền thánh cách xa, tà kiến sâu,<span><br />
</span>Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều [ác tổn] oán hại.</span></i><span style="color: navy; font-family: Arial;"><i><span><br />
</span></i><i>Nghe pháp Đốn Giáo của Như Lai,<span><br />
H</span>ận chẳng phá nát như đập ngói.</i><i><span><o:p></o:p></span></i></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">(Chứng Đạo Ca)<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Trong thời Mạt Pháp, [người ta không phân biệt được <span> </span>tà với chánh] tà chánh bất phân, quý vị chỉ cần xét xem: Người đó có còn tâm tham, tâm tranh, tâm mong cầu, tâm ích kỷ, tâm tự lợi hoặc tâm nói dối hay không? Người đó có suốt ngày suốt đêm nói dối, lừa gạt người khác hay không? Tôi không biết người này là ai. Tôi chỉ gọi đó là một con quỷ.<o:p> "</o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Những thiên ma và ngoại đạo này đều là sự biến hiện của năm mươi loại ấm ma được giảng trong Kinh Lăng Nghiêm. Nếu người ta có thể quen thuộc với nội dung của phần Năm Mươi Ấm Ma, thì người ta sẽ không bị <span> </span>lầm lạc lúc tu hành. Ví dụ, trong “<a href="http://www.dharmasite.net/KinhLangNghiem_TuChungThanhTinhMinhHoi.htm" style="text-decoration: none;">Bốn Lời Răn Dạy về Tánh Thanh Tịnh”</a> trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, sẽ có nhiều thứ yêu tà ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, âm thầm lừa dối mọi người, xưng là bậc Thiện-tri-thức, và kẻ nào cũng tự nói là đã đắc Thượng-nhân Pháp. … <span>Họ chưa đắc mà nói đắc, chưa chứng mà nói chứng</span> .. <span>Hạng Nhất-điên-ca (nhất xiển đề) này làm tiêu diệt Phật-chủng. "<o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Ở đây là nói về những kẻ ngoại đạo này. Tất cả bọn họ đều tự xưng rằng họ đã giác ngộ rồi. Chưa được bất cứ sự chứng nhận giác ngộ nào, họ lại nói rằng họ đã được chứng ngộ; chưa đắc Đạo, họ lại nói là họ đã đắc Đạo. Những người nói ra những điều dối trá (đại vọng ngữ) này đã hủy hoại hạt giống của Phật. Họ đã <span> </span>vĩnh viễn tự cắt đứt thiện căn của chính mình.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Ngoài ra, trong quyển trung của Kinh Phật Tạng, Đức Phật tiên đoán rằng vào thời Mạt Pháp các ác ma sẽ dùng hình tướng Sa Môn và sẽ dạy chúng sanh thuyết tà đạo.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Trong Kinh có nói rằng: “Xá Lợi Phất! Các ác ma bây giờ ẩn <span> </span>trong thân của những kẻ giúp ông Điều Đạt (tức Đề Bà Đạt Đa) để phá Ta (Đức Phật), Pháp và Tăng. Bởi vì Như Lại với đại trí tuệ còn ở trên thế gian, những quỷ ma xấu xa đó không thể thành công khi làm việc đại ác. Trong tương lai, ác ma sẽ mang hình tướng Sa Môn (người xuất gia), vào Tăng Đoàn, và nói đủ loại tà thuyết, làm cho nhiều người trở thành tà nhân và nói tà pháp… Đức Phật tiên đoán những điều như vậy sẽ được tạo nên để phá hoại Phật Pháp và sẽ xảy ra vào thời kỳ Mạt Pháp.”<span> </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Vào thời Mạt Pháp, vì phước báo của chúng sanh quá cạn cợt và trí tuệ của chúng sanh chỉ có trên bề mặt, rất nhiều “ma Tăng” sẽ “đến thế gian để cứu chúng sanh” (chuyển thế độ chúng). Giả danh là Phật Giáo họ tuyên truyền tà pháp trên mức độ rộng lớn, đưa chúng sanh vào <span> </span>làm “quyến thuộc” của họ. Làm sao không đau buồn cho được!<o:p> <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#5*" style="text-decoration: none;">(5)</a></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Vị cao tăng thời cận đại là Hòa Thượng Hư Vân có lần nói: “Đây là thời Mạt Pháp. Ở đâu quý vị có thể tìm thấy bậc Thiện Tri Thức? Tốt nhất là nên đọc Kinh Lăng Nghiêm cho tới khi quý vị quen thuộc thông suốt. Đến lúc đó sự tu hành của quý vị sẽ an toàn và quý vị có cơ hội được độ thoát. Bằng cách chận đứng các tà duyên, thân tâm quý vị có thể nhập Phật tri kiến và khi được như vậy, quý vị sẽ không đi sai đường!” Quý vị thấy chư Tổ đã nhấn mạnh như thế nào về Kinh Lăng Nghiêm! Bộ kinh này là tấm “kính chiếu yêu” để dùng cho việc tu hành, và cũng là một bộ kinh mà mọi đệ tử Phật nên đem mồ hôi và máu của mình để hộ trì.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Để có thể phân biệt giữa Phật và ma, giữa tà và chánh, Hòa Thượng đã có lời khuyên rất rõ ràng:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Nếu quý vị có thể ngăn ngừa, không bị dính mắc với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, cảm thọ, và pháp; thì những ấm ma này không thể làm gì quý vị được cả. Nếu quý vị không có mảy may tham, sân, hay si thì quý vị sẽ thắng được những ấm ma nay. Nếu quý vị không có chút gì ích kỷ, tư lợi, cũng chẳng hề tranh giành, tìm cầu, thì không ma quỷ nào có thể làm gì quý vị được cả!.”<o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Thật ra, Phật và ma chỉ hiện hữu trong một niệm. Nếu một người không có tâm niệm tham lam, tìm cầu, ích kỷ, tư lợi và dối trá thì những loại ma quỷ này sẽ không hiển hiện. Có câu rằng: “Khi bên trong có quân tử, thì quân tử sẽ đến, nếu bên trong có tiểu nhân, thì tiểu nhân sẽ thân cận.” (Môn nội hữu quân tử, Môn ngoại quân tử lai; Môn nội hữu tiểu nhân, Môn ngoại tiểu nhân chí.) Đó cũng chính là đạo lý ”vạn pháp duy tâm tạo”. Hòa Thượng có bài kệ:<o:p> </o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Tánh định, ma phục ngày ngày vui.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Vọng niệm không khởi chốn chốn an.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Tâm ngừng niệm nghỉ, thật phú quý.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Đoạn dứt dục niệm, thật phước điền.”</span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Đó là phương pháp tốt nhất để hàng phục tất cả ma quỷ.<o:p> </o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Tôi hy vọng rằng tất cả [sinh viên] học nhân chúng ta có thể “ma đến, chém ma; Phật đến, chém Phật”. Tất cả các thiện pháp và tất cả các ác pháp đều hiện hữu bởi vọng tưởng của chính chúng ta. Chúng ta nên không trụ vào đâu cả (ưng vô sở trụ). Cần nên “Nếu không nghĩ là mình chứng thánh thì đó là cảnh giới tốt. Nếu nghĩ mình chứng thánh, thì rơi vào cảnh giới ma.” (Bất tác thánh tâm, Danh thiện cảnh giới; Nhược tác thánh giải, Tức lạc quần tà.)</span><span style="font-family: Arial;"><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><b><a href="" name="2e"><span style="color: navy; font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-size: small;"></span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Phần 5: Quy Y và Phong Bì Đỏ</span></b></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><br />
</div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trong những Phật tử Á Đông đã quy y, có một sự hiểu lầm rất phổ biến. Mọi người đều nghĩ rằng càng quy y với nhiều thầy thì càng tốt. Đây là một dấu hiệu của thời kỳ Mạt Pháp. Do quy y với Thầy này, rồi quy y với Thầy nọ, họ gây ra sự tranh chấp giữa các Thầy vì tranh cãi lẫn nhau xem ai là người có duyên Phật Pháp và có được những người đệ tử đó. Nhưng Hòa Thượng luôn luôn yêu cầu những người đã quy y rồi thì đừng ghi danh quy y nữa - họ chỉ cần theo đại chúng và tùy hỷ. Một vị cao tăng đương thời là Đại Sư Ấn Quang cũng có nói rằng trong việc quy y, thành viên của Tăng Đoàn là đại diện cho Phật để truyền ba quy y (Tam Quy). Vị Thầy đó là chứng minh sư, nhưng người Phật tử quy y không phải là quy y với vị Thầy đó. Điều này có nghĩa là chúng ta thật sự nên đặt câu hỏi là :<span> </span>"Ai là vị Thầy chứng minh việc truyền Tam Quy cho quý vị ?" chứ không phải là câu hỏi :<span> </span>"Quý vị quy y với ai ?". Hòa Thượng nói: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Có người nói rằng :<span> </span>'Thiện Tài Đồng Tử thăm viếng năm mươi ba vị (thầy), như vậy tại sao tôi không thể lạy thêm nhiều vị thầy nữa ?'. Nhưng quý vị cần nhận thức rằng Thiện Tài Đồng Tử luôn luôn được thầy cũ gởi đi đến vị thầy kế tiếp. Đó không phải là do lòng mong muốn tham lam có vị thầy khác có đủ đức hạnh, quay lưng lại với vị thầy hiện tại của mình và lén lút quy y với vị thầy khác. Rất nhiều <span> </span>Phật tử cao niên người Trung Hoa đã quy y tới hàng chục hay hàng trăm lần. Nhưng khi quý vị hỏi họ "quy y" có nghĩa là gì, thì họ không biết. Như vậy không đáng thương hay sao ? Họ nói rằng tất cả người xuất gia là thầy của họ. Nhưng tôi lại cho rằng họ không có một vị thầy nào cả, bởi vì tâm họ thiếu lòng tin, như vậy thì làm sao họ được cứu độ ? Con người cần phải có lòng tin để được cứu độ. Đừng nói rằng: "Có lẽ lần trước lúc tôi quy y, chư Phật không để ý, do đó tôi nên quy y lại."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Khi đề cập vấn đề phong bì đỏ, từ trước đến nay Hòa Thượng đều phản đối phong tục này. Bởi vì trong đó có yếu tố lừa dối. Không ai biết trong phong bì đỏ đó là bao nhiêu tiền. Đối với những Phật tử ở Á Châu, quy y và phong bì đỏ có liên hệ với nhau. Trong trường hợp như vậy, những người không thể có phong bì đỏ và những người ngoại đạo sẽ không dám tin Phật và quy y. Hòa Thượng nói: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử giữ một vị trí rất quan trọng tuy nhiên lại có ảnh hưởng phức tạp đến Phật Giáo Trung Hoa. Hầu hết các Pháp Sư biết rất rõ ràng rằng việc một người quy y với rất nhiều thầy khác nhau là không đúng. Điều đó không phù hợp với Phật Pháp. Nhưng nếu không để điều đó xảy ra, "phần"<span> </span>(phong bì đỏ) của họ sẽ giảm đi đáng kể. Do đó cho đến hôm nay không có ai công khai phản đối phong tục này. Biết rất rõ ràng điều đó là sai, mà người ta vẫn làm. Thật phức tạp có phải không ? Tại sao ? Thứ nhất là vì "đồng tử"<span> </span>(lôi kéo tín đồ và thứ nhì là vì "Thiện Tài"<span> </span>(để được phần phong bì đỏ). Đây là thói tục tệ hại nhất trong Phật Giáo."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Sự hiểu biết chân thật và cái nhìn rõ ràng của Hòa Thượng rất khác biệt với đa số. Biết bao là lòng từ bi đằng sau tiếng sư tử hống của Hòa Thượng, Ngài lên tiếng vì Ngài "không đành nhìn giáo pháp của thánh nhân bị suy đồi". Rất nhiều "Đạo sư tài tử" ở Đài Loan, được đệ tử đưa lên đài cao, đã hoàn toàn quên mất trách nhiệm " gánh vác gia nghiệp của Như Lai để cứu chúng sanh" của chính mình. Mỗi ngày họ ngụp lặn, say sưa trong vòng danh vọng, lợi lộc và quên bẵng vấn đề lớn sinh tử. Thật ra, khi đệ tử của Tam Bảo gặp những vị thầy xuất gia thì họ nên thỉnh hỏi về Phật Pháp, không nên chỉ <span> </span>một mực cúng dường phong bì đỏ. Tại Thái Lan, Tích Lan v.v.., người tại gia cúng dường thực phẩm cho Tam Bảo. Bên cạnh đó, Đức Phật hạn chế các Tỳ Kheo chỉ được dùng một bữa ăn lúc Ngọ trong ngày, và không cho phép họ dùng bình bát để xin tiền. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span lang="FR" style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Trong quyển bảy của Kinh A Hàm, Đức Phật nói:<span> </span>"Cất giữ vàng, tiền bạc hoặc đồ quý giá đều không phải là Pháp của Sa Môn, đệ tử của Thích Ca. Nếu họ có giữ vàng hoặc tiền hoặc đồ quý giá, thì họ không phù hợp Pháp của Sa Môn, Thích tử." Do đó, xin tiền (hóa duyên) không phải là phương pháp tu hành của người xuất gia. Trong quyển 54 của Tứ Phần Luật, Đức Phật bảo Trường giả Châu Man:<span> </span>"Sa Môn, đệ tử của Thích Ca, không nên cất giữ vàng bạc; họ nên cho đi châu báu của họ, và không tự trang sức. Bất cứ người nào cất giữ vàng bạc cũng sẽ bị dính mắc vào ngũ dục, như thế, họ không theo Pháp của Sa Môn, đệ tử Phật.”<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Có ai nghĩ rằng ngày nay, trong thời kỳ Mạt Pháp, có những kẻ xuất gia dùng bình bát để xin tiền !. Việc này đã có tác dụng hủy hoại thanh danh của Phật Giáo và sự tu tập của thành viên Tăng Đoàn, đặc biệt hiện nay khi có những người đi xin và tự xưng là người xuất gia để phá hoại Phật Pháp. Nếu thành viên của Tăng Đoàn không mang bình bát đi xin tiền, thì chắc chắn sẽ không có người nào <span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;">chịu khó</span> dám mạo xưng là thành phần của Tăng Đoàn. Do đó, Hòa Thượng khuyến khích đệ tử của Ngài giữ giới "không giữ tiền" càng nhiều càng tốt; để tránh "kết duyên" với tiền bạc càng nhiều càng tốt. Hòa Thượng nói:<span> </span> </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Bởi vì người xuất gia có thể tu hành được nếu họ không có tiền. Một khi họ có tiền, họ chắc chắn sẽ không tu hành được. Tôi có thể bảo đảm điều đó. Hãy nhìn xem! Hãy nghiên cứu đi. Những <span> </span>Đạo sĩ thì tự xưng là 'bần Đạo'. Tăng sĩ thì tự xưng là 'bần Tăng'. Không ai nói đến ’phú Tăng’ hay ‘phú Đạo’. Do đó, khi quý vị dùng tiền để cúng dường cho 'phú Tăng' hay 'phú Đạo', điều đó cũng giống như quý vị tạo tội. Tôi sẽ làm phiền lòng nhiều người khi nói lên điều này. Nhưng dù tôi có làm phiền quý vị đi nữa, thì tôi cũng phải nói lên sự thật." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span lang="FR" style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Một vấn đề nữa đang xảy ra trong Phật Giáo hiện nay là cái gọi là "pháp làm giàu". Hòa Thượng nghiêm khắc và <span> </span>thẳng thắn về vấn đề này:<span> </span>"Không có Pháp nào như thế để làm giàu trong Phật Giáo." Đại Sư Vĩnh Giác có nói trong Chứng Đạo Ca:<span> </span>"Đệ tử Thích Ca nói rằng họ nghèo; họ thật sự nghèo về thân, nhưng không nghèo về Đạo. Về sự nghèo, thân họ bao bọc trong giẻ rách thô kệch. Về đường Đạo, trong tâm họ chứa đựng viên ngọc vô giá." Đó là nói về "bần Tăng" trong Phật Giáo. Chữ "phú Tăng" không hiện hữu. Bởi vì họ là "bần Tăng", làm sao họ có thể truyền "pháp làm giàu"?<span> </span>(nhưng họ đã làm cho người khác lầm lạc bằng cách nói rằng đó là <span> </span>pháp phương tiện của Đức Phật trong khi thật ra hoàn toàn không phải!). Nhận định của Hòa Thượng là:</span></span></div><blockquote><div align="justify"><span lang="FR" style="color: navy; font-size: 12pt;"><span style="font-family: Arial;">"Quý vị phải xem xét cẩn thận bất cứ người nào dạy kẻ khác 'Pháp làm giàu' để xem chính người đó có giàu thật hay không. Nếu người đó giàu thật, thì vì quý vị muốn giàu cho nên quý vị đã đưa tiền bạc của mình cho người đó. Vì vậy mà người đó có tiền. Cũng giống như đầu tư vào chứng khoán, <span> </span>quý vị phải mua cổ phiếu trước khi có thể làm ra tiền. Và như vậy, đầu tiên quý vị phải cúng dường cho người đó - có thể một ngàn, hay mười ngàn, hoặc một trăm ngàn- và sau đó tủ sắt của quý vị sẽ đầy tiền và sẽ phát ra ánh sáng đỏ, có phải không ? Hoặc ánh sáng vàng ? Hay ánh sáng đen ? Nếu đó không phải là sự lừa đảo chuyên nghiệp thì là cái gì ? Bởi vì tôi không bao giờ truyền </span></span><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">truyền ‘pháp làm giàu,’ tôi phơi bày bí mật này ra."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Phật Giáo là một giáo pháp cao thượng, chắc chắn không ngừng lại với "phong bì đỏ" kèm theo danh lợi. Phật Giáo cũng không ngừng lại với những "Pháp hội" đi cùng với việc cứu độ vong linh. Chư Phật và những bậc đại trí muốn chúng sanh hiểu rằng thế gian là vô thường và người ta cần dẹp bỏ tham sân si. Làm sao mà chư Phật, chư Bồ Tát lại bị giáng xuống ngang hàng với các vị thần linh để người ta đến "tìm cầu phú quý, thăng quan tiến chức" ? Đó không phải là hối lộ hay sao ? Như vậy thì thứ Phật Giáo đó có khác gì các tôn giáo dân gian và thần giáo của Tây phương ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"> </div><blockquote><div align="justify"><b><a href="" name="2f"><span style="font-size: small;"></span></a><span style="color: navy; font-family: Arial;">Phần Sáu: Luôn Mặc Áo Giới và Ăn Ngày Một Bữa</span></b></div></blockquote><div align="justify"> </div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Mọi người đều biết rằng "đắp giới y và ăn ngày một bữa" là gia phong mà Vạn Phật Thánh Thành được đặc biệt biết đến. Hòa Thượng đặc biệt tuyên bố rằng bất cứ người nào xuất gia với Ngài đều phải tuân thủ những quy định của Đức Phật: "Ngày ăn một bữa lúc giữa trưa và luôn luôn mặc áo giới"; và dù Vạn Phật Thánh Thành có bị những kẻ bên ngoài chỉ trích như thế nào đi nữa, ngay cả phỉ báng rằng Thánh Thành làm những việc mới lạ để phô trương, thì Hòa Thượng vẫn không bao giờ vì thế mà thay đổi gia phong. Đối với một loạt những phỉ báng, Hòa Thượng chỉ nói: "Đây không phải là những quy luật do tôi đặt ra. Đây là quy luật của Phật. Chúng ta cần phải tuân thủ quy luật của Phật." Tuy vậy, đối với những đệ tử xuất gia tương đối lớn tuổi, Hòa Thượng đã phương tiện cho phép họ ăn ba bữa mỗi ngày. Quy định này vẫn được giữ nguyên ngay cả trong lời di huấn của Hòa Thượng trước khi Ngài nhập Niết Bàn, không hề sửa đổi. Chính Hòa Thượng đã nói: </span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Ngay cả trước khi tôi xuất gia, lúc còn là người tại gia, tôi đã ăn ngày một bữa. Và từ khi tôi xuất gia đến nay, trải qua bao nhiêu năm trời, tôi vẫn chỉ ăn ngày một bữa. Những người muốn xuất gia với tôi, người nào mà có thể ăn ngày một bữa, thì tôi sẽ thâu nhận; nếu<span> </span>không thể ăn ngày một bữa, thì tôi sẽ không thâu nhận. Đây là điều kiện thiết định cho những ai muốn xuất gia với tôi; dầu dưới bất cứ áp lực nào, do thời gian hay hoàn cảnh, đều không thay đổi." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tại sao Hòa Thượng xem việc “ăn ngày một bữa" quan trọng như vậy ? Bởi vì "khi bụng no thân ấm, thì nghĩ về dâm dục". Càng no đủ, càng nhiều dục vọng. Vấn đề này đã được thảo luận (Kinh Trường A Hàm, quyển 22, “Phẩm Ghi Chép Về Thế Giới: Nhân Duyên Căn Bản Của Thế Giới”) và có ghi lại: “Những chúng sanh cõi trời Quang Âm khi hết phước báo và bị đọa xuống nhân gian, thì họ bắt đầu ăn cơm, thân thể trở nên thô kệch, xấu xí và mang tướng nam, tướng nữ. Họ nhìn ngó lẫn nhau rồi sanh khởi dục niệm và họ đi đến nơi kín đáo để làm hạnh bất tịnh." Và, có câu thành ngữ Trung Hoa nói rằng:<span> </span>"Đồ ăn uống sanh ra nam nữ.” Điều này chứng minh rằng dâm dục là từ sự ẩm thực quá lượng mà ra. Và nếu đó là việc "ăn phi thời," thì đó là vấn đề phá giới. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Một số người xem vấn đề này như sau: " Hiện tại không phải là thời đại của Đức Phật và chúng ta cũng không phải đang ở Ấn Độ, người Trung Hoa lại không phải là người Ấn Độ,<span> </span>mà giới luật được đặt ra là ’tùy thời, tùy nơi, tùy người‘, như vậy những giới đó chỉ có thể áp dụng cho những người ở tại Ấn Độ chứ không thích hợp cho người ở tại Trung Hoa." Thật ra điều đó không đúng vì, trong Phật Giáo, giới luật là một trong Ba Vô Lậu Học gồm Giới, Định, Huệ, và tất cả đều đã được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Nếu nói rằng Giới Học không thích hợp cho người Trung Hoa, như vậy có nghĩa là Định Học và Huệ Học cũng không thích hợp cho người Trung Hoa hay sao? Thật là phi lý! </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Không ăn phi thời là hạnh nguyện mà người xuất gia phải giữ và là điều kiện tiên quyết của việc cạo đầu xuất gia. Hơn nữa, trong Bát Quan Trai Giới của người tại gia cũng có bao gồm giới “không ăn phi thời". Do đó đây là vấn đề giới luật có được nghiêm trì hay không. Ngoại trừ khi bị bệnh, không có lý luận nào có thể chấp nhận được. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Thêm nữa, trong Kinh Xứ Xứ có liệt kê năm loại phước đức có được do không ăn sau giờ ngọ: “1. Ít dục vọng (thiểu dâm); 2. Ít ngủ (thiểu thùy); 3. Tâm định (đắc nhất tâm); 4. Không bị vấn đề đầy hơi trong bụng (thiểu hạ phong); 5. Thân thể yên ổn và không bệnh (thân đắc an ổn diệc bất tác bịnh).” Từ đó chúng ta có thể thấy rằng không ăn sau giờ ngọ thì có thể được phước. Ngoài ra trong Luận Đại Tỳ-Bà-Sa cũng cho rằng: “Không ăn sau giờ ngọ làm bớt ngủ mê, giảm đi vấn đề giữ thức ăn qua đêm, giúp tâm dễ nhập Định, và do có những lợi ích như vậy, nên chỉ ăn vào lúc giữa trưa.” Trong Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn có nói:<span> </span>"Lý do bốn mươi cái răng của Như Lai sạch, trắng và thẳng tắp là do sự nghiêm ngặt tránh ăn phi thời mà Ngài đã thọ trì trong những kiếp trước." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Và<span> </span>trong Kinh Xá-Lợi-Phất Vấn, Đức Phật đã nghiêm khắc khuyên Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:<span> </span></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><span> </span>"Những người ăn phi thời là những kẻ phá giới, là những kẻ ăn cắp, là những kẻ sẽ chịu khổ điên loạn vì họ đã phá hoại thiện quả và họ không phải là đệ tử của Ta. Họ ăn cắp lợi ích của Pháp của Ta, họ ăn cắp danh tiếng, họ ăn cắp thực phẩm, một chút chỗ này, một chút chỗ kia; một chút muối, một chút dấm, và sau khi chết, họ sẽ bị đọa địa ngục Thiêu Ruột và mọi thứ đều trở thành viên sắt nóng đỏ." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trong Kinh Tỳ-Ni Tam Muội có giải thích như sau:<span> </span></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Buổi sáng là giờ chư thiên ăn, buổi trưa là chư Phật ăn, buổi chiều là súc sanh ăn, và buổi tối là giờ quỷ thần ăn. Ngày nay, để tạo nhân duyên cho sự<span> </span>thoát ly sáu nẻo và noi gương chư Phật ba thời, việc ăn vào lúc giữa trưa được xem là đúng lúc để ăn (chánh thời)."<span> </span></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Vì thế, ngay thời bây giờ, tại Ấn Độ và các quốc gia mà ở đó Phật Giáo Nam Truyền thịnh hành, giới điều không ăn sau ngọ của Đức Phật vẫn còn được thọ trì. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Nhưng tại quốc gia của tôi [Trung Hoa], hầu hết chư tăng Trung Hoa đã khai mở giới điều này, họ gọi bữa ăn chiều là "thuốc" (dược thạch) và tùy ý thọ dụng. Hòa Thượng không đồng ý chuyện này. Hòa Thượng nói rằng: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">“Trong khóa Thiền quý vị cũng đã được học về ‘khóa ăn’ Trung Hoa là như thế nào rồi --đó là ba thời trà và bốn thời cơm, ngoài ra còn có thêm món bánh bao vào thời khuya nữa. Tôi không tin rằng quý vị ăn uống như vậy mà vẫn có thể dụng công được! Tôi ngày ăn một bữa mà đã cảm thấy rắc rối, phiền phức lắm rồi; vậy mà, nếu ăn bốn bữa cơm và thêm bữa bánh bao vào buổi tối nữa thì sẽ như thế nào?! Trong Phật Giáo Trung Hoa, người ta<span> </span>gọi bữa ăn tối là gì ? Họ gọi đó là "dược thạch"<span> </span>(thuốc, đá), tức là họ xem bữa ăn tối như uống thuốc vậy </span><span style="color: navy;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#6*" style="text-decoration: none;"><span lang="FR">(6)</span></a></span><span lang="FR" style="color: navy;">. Cho nên, họ nói rằng đó chẳng qua chỉ là liều thuốc để trị bệnh mà thôi! Đó gọi là “bịt tai ăn cắp chuông”. Đó chính là lừa mình và lừa người. Bởi vì họ muốn ăn tối, họ gọi thức ăn tối đó là "thuốc"!!! Phật Giáo Trung Hoa là như thế. Đó là thứ Phật Giáo lừa gạt người; thứ Phật Giáo lừa dối người - tôi không có cách nào cải chánh lại được!"</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Về ý nghĩa của chữ "dược thạch," trong quyển 18 của Huyền Ưng Âm Nghĩa có chép: "Dược thạch (nghĩa thường: thuốc và đá) là thứ dùng để chữa bệnh. Người xưa dùng đá làm kim châm, ngày nay thì người ta dùng sắt. Tất cả đều nhằm mục đích chữa bệnh." Phần La-Hán Dược Thạch, trong quyển một của Phật Đình Sự Uyển, có nói rằng:<span> </span>"Ăn thức ăn để chữa bệnh, và đó gọi là 'thuốc' (dược thạch) ". Phần Ẩm Đạm Môn trong Thiền Lâm Tượng Khí có nói như sau về<span> </span>dược thạch:<span> </span>"Thuốc (dược thạch) là ẩn ngữ để chỉ món cháo dùng vào buổi tối. Bởi vì cháo dùng vào buổi tối nhằm bồi bổ cơ thể và chữa bệnh tật để hành giả có thể tiến bộ trong sự tu tập của mình, do đó gọi là thuốc (dược thạch)”. Từ đó có thể thấy rằng danh từ "dược thạch" (thuốc) chỉ là một tên khác để chỉ "bữa ăn tối" được Phật Giáo Trung Hoa phát minh ra mà thôi!. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Nói chung, mặc dầu Đức Phật, Đấng Thế Tôn, đã loại bỏ một số giới nhỏ trước khi nhập Niết Bàn, nhưng giới không ăn phi thời thì không bỏ được. Quyển 15 của Kinh Tạp A Hàm nói rằng:<span> </span>"Khi người nào biết giảm thiểu ăn uống cuốn thành miếng (đoàn thực) </span><span style="color: navy;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#7*" style="text-decoration: none;"><span lang="FR">(7)</span></a></span><span lang="FR" style="color: navy;"> lúc phi thời, người đó sẽ có được công đức của sự đoạn trừ tham ái ngũ dục. Trong những đệ tử đa văn và thánh thiện có công đức giảm thiểu tham lam, tôi chưa thấy một ai mà còn một kiết sử trong ngũ dục chưa đoạn trừ. Dù chỉ còn một kiết sử, họ vẫn phải tái sanh lại thế gian này." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Giới không ăn phi thời<span> </span>chính là Phạm hạnh thanh tịnh “đoạn đoàn thực”. Làm sao hành giả muốn chấm dứt sanh tử và rời khỏi nhà Tam Giới lại không lưu ý đến giới này ? </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Dưới đây hãy thảo luận về quan điểm của Hòa Thượng đối với việc mặc áo giới (giới y). Hầu hết các Sa Di (chú tiểu) và tại gia tín chúng đã thọ năm giới (Ngũ Giới) hoặc Giới Bồ Tát đều mặc áo mạn y (hay mạn điều y; tiếng Phạn là pattha), tức là áo cà sa </span><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#8*" style="text-decoration: none;"><span lang="FR" style="color: navy;">(8)</span></a><span lang="FR" style="color: navy;"> không phải do nhiều miếng vải hợp lại như hình thửa ruộng (vô điền tướng cà sa). </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Quyển 40 trong Tứ Phần Luật ghi rằng Đức Phật cho phép người trong Tăng Đoàn mặc y An-đà-hội (antarvasaka) không vá chắp. Trong<span> </span>Phật Chế Tỳ-Kheo Lục Vật Đồ có ghi lại rằng: "Y thường có ba công dụng. Khởi thủy là y cho Sa Di. Phần Luật đồng ý rằng Sa Di nên có hai y thường—một<span> </span>y thất điều bảy miếng nên mặc khi nhập chúng, và một y ngũ điều năm miếng<span> </span>nên mặc khi làm việc." (Chữ "nên" được dùng vì kiểu y vẫn chưa được tiêu chuẩn hóa.) Trong một trăm năm đầu sau khi<span> </span>Phật Giáo được truyền đến Trung Hoa, chư Tăng vẫn chưa biết cách làm y nhiều miếng vá, do đó họ chỉ mặc y thường (mạn y) mà thôi. Cho đến giữa thời nhà Hán và nhà Ngụy, họ dần dần bắt đầu mặc y Tăng-già-lê (samghati) màu đỏ </span><span style="color: navy;"><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#9*" style="text-decoration: none;"><span lang="FR">(9)</span></a></span><span lang="FR" style="color: navy;">. Do đó có thể biết được áo cà-sa màu đỏ từ lâu đã được dùng ở Trung Hoa.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Hòa Thượng nghiêm khắc yêu cầu những người xuất gia với Ngài phải luôn mặc áo giới và không bao giờ để áo giới rời thân (y bất ly thể). Hòa Thượng nói: </span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">“Nếu người xuất gia mà không mặc áo giới, thì cũng giống như đã hoàn<span> </span>tục. Người đó không khác gì<span> </span>kẻ thế<span> </span>tục. Mặc áo dài của Trung Hoa với cổ áo cong cong (áo tràng) chưa đủ để chứng tỏ người đó là người xuất gia. Đừng nói là áo tràng, ngay cả khi quý vị có mặc áo giới, mà quý vị vẫn còn dám phá giới và làm điều không thành thật suốt ngày, huống gì là nếu quý vị không mặc áo giới! Ngày nay, người xuất gia tại Trung Hoa và các nơi khác, đa số (người xuất gia) trong Phật Giáo Đại Thừa, đều không mặc áo giới. Họ nghĩ rằng không mặc áo giới là đúng đắn và là chuyện đương nhiên, cần nên như vậy. Có điều, họ không nhận thức được là khi không<span> </span>mặc áo giới, thì họ không còn mang tướng Tỳ Kheo nữa rồi!"</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Hòa Thượng khẳng định rằng: ”Người xuất gia nhất định phải mặc áo giới, nếu không, sẽ không có tướng Tỳ Kheo.”<span> </span>Giới y là biểu tướng<span> </span>phân biệt của đệ tử của Phật. Chính bản thân Đức Phật cũng có ba y và một bình bát, và Ngài luôn luôn đắp y. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kinh Đà-La-Ni Tập nói rằng: “Thân vàng của Đức Phật được đắp trong y cà sa màu đỏ (xích cà-sa, saffron kashaya)."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kinh Yếu Lược Niệm Tụng nói rằng: "Thân của Đức Phật như vàng ròng, trang nghiêm với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Ngài đắp y cà sa saffron và ngồi thế kiết già." Như thế không phải là không có lý do khi Hòa Thượng xiển dương việc chư Tăng cần phải mặc áo giới. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Có vô số trường hợp kinh đã đề cập về lợi ích của việc mặc áo cà sa. Ví dụ, Kinh<span> </span>Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán thảo luận mười lợi ích của việc mặc áo cà sa. Quyển tám của Kinh Từ Bi Hoa mô tả năm công đức thánh thiện của áo cà sa của Đức Phật. Quyển mười sáu của Luận Thập Trụ Tỳ-Bà-Sa mô tả hai mươi sáu loại y và mười lợi ích của chúng. Quyển bốn của Kinh Hải Long Vương kể lại việc Long Vương được thoát khỏi móng vuốt của chim Đại Bàng cánh vàng nhờ sự che chở của áo cà sa của Đức Phật. Tuy nhiên vẫn còn có người phản đối việc mặc áo giới và xem đó là cách tạo thêm kiểu đặc biệt. Hòa Thượng nói: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">“Ngày nay người ta vô tình làm thói quen xấu trở thành một quy ước. Những người không mặc áo giới được xem là ‘Phật tử chân chánh’, trong khi những người mặc áo giới thì bị xem là giả mạo. Nếu tất cả quý vị những người học Phật mà còn không hiểu điểm sơ đẳng này, thì về căn bản quý vị chưa phải là Phật tử vậy.”</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kinh Đại Bi nói: "Ngay cả Sa Môn (tu sĩ Phật Giáo) trong tự tánh ô nhiễm hạnh Sa Môn, nếu họ có tướng của Sa Môn và mặc áo cà sa, thì tất cả những người như họ -không có ngoại lệ- sẽ được vào Niết Bàn giữa thời Phật Di Lặc và Phật Lâu-Chí". </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Sau khi đọc những lời này từ các kinh sách, chúng ta có còn phản đối quy luật mặc áo giới nữa hay không ? Hòa Thượng nói :<span> </span></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">"Đúng sai cần gì cãi,</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Thật giả lâu tự biết,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kẻ trí thấy chân thật,</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kẻ ngu hành giả dối,</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kẻ tốt học Bồ tát,</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Kẻ xấu dám mắng Phật,</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tâm Đại Bi bình đẳng,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Phổ độ chúng hữu tình."</span><span lang="FR"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;"><br />
</span><b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"><a href="" name="3"></a>Chương Thứ Ba: Giảng Kinh</span></b></div><blockquote><table border="0"><tbody>
<tr><td align="center" rowspan="2"><img border="0" height="368" src="http://www.dharmasite.net/images/btts_4.jpg" width="345" /></td><td align="center"><img border="0" height="236" src="http://www.dharmasite.net/images/bs_d.jpg" width="193" /></td><td align="center"><img border="0" height="237" src="http://www.dharmasite.net/images/bs_a.jpg" width="193" /></td></tr>
<tr><td align="center"><img border="0" height="127" src="http://www.dharmasite.net/images/bs_c.jpg" width="193" /></td><td align="center"><img border="0" height="128" src="http://www.dharmasite.net/images/bs_e.jpg" width="193" /></td></tr>
</tbody></table></blockquote><div class="Section1"><div align="center" class="MsoNormal"></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Các kinh sách Hòa Thượng đã giảng trong suốt cuộc đời của Ngài được liệt kê tổng quát như sau: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, Tâm Kinh, <a href="http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_PhanLuocTu.htm" style="text-decoration: none;">Kinh Lục Tổ</a>, <a href="http://www.dharmasite.net/KinhDiaTangLuocGiang.htm" style="text-decoration: none;">Kinh Địa Tạng</a>, <a href="http://www.dharmasite.net/KinhADiDaLuocGiang.htm" style="text-decoration: none;">Kinh A Di Đà</a>, <a href="http://www.dharmasite.net/Kinh42chuong.htm" style="text-decoration: none;">Kinh Bốn Mươi Hai Chương</a>, Bách Pháp Minh Môn Luận, Kinh Di Giáo, <a href="http://www.dharmasite.net/ChungDaoCa.htm" style="text-decoration: none;">Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác</a>-- tất cả có hơn 30 loại khác nhau. Ngoài ra Hòa Thượng còn giải thích về hai lãnh vực triết học của Trung Hoa: Tứ Thư và Kinh Dịch. Trong tất cả những kinh sách này có ba tác phẩm rất đặc biệt, ít có người giảng giải, đó là: Kệ và Chú Giải Chú Lăng Nghiêm, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, và Phật Tổ Đạo Ảnh (Chân Dung Chư Tổ Phật Giáo) giải thích bằng ngôn ngữ dễ hiểu của thời đại ngày nay. </span><span lang="FR"><o:p> </o:p></span></span></div><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><div align="center"><a href="http://www.dharmasite.net/images/ShurangamaMantra.jpg" style="text-decoration: none;"><img alt="ShurangamaMantra.jpg (237392 bytes)" border="0" height="201" src="http://www.dharmasite.net/images/ShurangamaMantra_small.jpg" width="155" /></a></div><div align="center" class="MsoNormal"><span lang="FR"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;">Chú Lăng Nghiêm</span></span></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Loạt bài thuyết giảng Kệ và Chú Giải Chú Lăng Nghiêm [Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sơ Giải] kéo dài tám năm, từ 1979 đến 1987. Trong suốt lịch sử Phật Giáo, bài chú này hiếm khi được giải thích. Chỉ có Đại Sư Tục Pháp của triều nhà Thanh và Pháp Sư Bá Đình ở <span> </span>Từ Vân Tự tại Vũ Lâm là từng giảng giải chú này. Pháp Sư Bá Đình nghiên cứu <span> </span>Mật Bộ và trước tác bộ Lăng Nghiêm Kinh Quán Đảnh Sớ gồm hai mươi sáu quyển, dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa, và sau đó giải thích chi tiết về mật chú này.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Trong Kinh và Chú của Phật Giáo, có "năm loại không phiên dịch" (ngũ chủng bất phiên) bởi vì ngôn ngữ bí mật của chư Phật khó cho hầu hết các vị thánh khác hiểu được, chứ đừng nói đến người thường. Mặc dầu theo thông lệ là không dịch các bài chú trong kinh, tuy nhiên người ta có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Một số người nghĩ rằng việc dịch ý nghĩa của các bài chú có thể mang lại hai mươi bốn loại lợi ích. Vì vậy, khi Hòa Thượng có được bản <span> </span>Lăng Nghiêm Chú Sớ vào năm Dân Quốc thứ 38 (1949), Ngài đã ghi lại: “Tôi có được điều mà trước đó tôi chưa từng có. Tôi miệt mài nghiên cứu <span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">và có được một cái nhìn về cảnh giới vi mật</span> . Tôi luôn luôn mang sách theo bên mình và không bao giờ xa rời.”<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Ngài cũng nói: "Để cho Chánh Pháp được trụ thế lâu dài <span> </span>và để chận đứng tà thuyết, mọi người cần phải hiệp lực và thâm nhập đại định rốt ráo kiên cố."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Sau khi Hòa Thượng đến Hoa Kỳ, Ngài <span> </span>tuyên giảng Chú Lăng Nghiêm, dùng thể thơ bảy chữ (thất ngôn) để giải thích từng câu một của bài Chú Lăng Nghiêm dài 554 câu, và sau đó chú giải theo ngôn ngữ thời nay. Đây thật là một kiệt tác "xưa nay chưa từng có", vô cùng quý giá. Hòa Thượng nói: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">"Dùng thể thơ tứ tuyệt để giải thích từng câu của bài Chú thì không cách nào giải thích trọn vẹn được, bởi vì diệu nghĩa trong bài Chú thì vô tận vô biên. Bốn câu thơ chỉ đề cập đến ý nghĩa tổng quát - chỉ ném ra một miếng gạch, hy vọng sẽ có người tìm ra được ngọc thạch. Bốn câu thơ có vẻ đơn giản, nhưng xuất phát từ tâm tôi. Quý vị có thể nói đó là máu của tôi, là mồ hôi của tôi. Đây chắc chắn không phải là ăn cắp văn (đạo văn) [tầm chương trích cú], sao chép lại của một người khác! Bây giờ tôi giải thích Chú Lăng Nghiêm cho quý vị, bài Chú mà trải qua trăm ngàn vạn kiếp cũng chưa từng có ai giải thích. Ngoài ra, cũng không dễ gì để giải thích trọn vẹn. Khi tôi giải thích chú này, tôi biết không có người nào trong quý vị hiểu tôi nói gì. Ngay cả những người họ nghĩ là họ hiểu được, thật sự họ cũng không hẳn đã hiểu được thấu đáo. Nhưng có thể mười năm, một trăm năm hay một ngàn năm sau, sẽ có người <span> </span>đọc được những lời giải thích đơn giản này và có được sự hiểu biết sâu xa." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Dưới đây là những lời khai thị của Hòa Thượng về Chú Lăng Nghiêm:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">"Vô tận diệu mật thật khó lường</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Kim cang mật ngữ từ tự tánh</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Trong Chú Lăng Nghiêm đủ hiệu năng</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Khai mở đường ngũ nhãn lục thông. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Là Vua Kiên Cố trong các định</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Trực tâm tu học đến Đạo Tràng</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thanh tịnh các nghiệp thân, khẩu, ý</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Quét sạch vọng niệm tham, sân, si. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thành tâm cảm ứng được chứng đắc</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Từ định thành tựu đại thần thông</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Đủ đức được gặp câu diệu huyền</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Luôn luôn đừng quên việc xiển dương. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Ngài A Nan đã chứng Sơ Quá, mà vẫn còn chịu nạn bởi người phụ nữ. Đức Phật phải dùng Chú Lăng Nghiêm để cứu ngài. Huống gì trong trường hợp của người thường ? Nếu chúng ta không nương tựa vào Chú Lăng Nghiêm, làm sao chúng ta có thể chấm dứt sanh tử được ? Hễ còn dù chỉ một người trên thế gian này biết tụng thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái sẽ không dám xuất hiện công khai. Nhưng đến thời điểm mà không còn ai tụng thuộc Chú Lăng Nghiêm nữa thì yêu ma quỷ quái sẽ công khai xuất hiện.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thật ra, bằng cách học Chú Lăng Nghiêm quý vị đã là hóa thân của Phật, <span> </span>không chỉ là hóa thân mà là hóa thân Phật trên đảnh của Phật. Những đặc tính của Chú Lăng nghiêm thật khó nghĩ bàn !" </span><span lang="FR"><o:p> </o:p></span></span></div><div align="center" class="MsoNormal"> </div></blockquote><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><div align="center"><a href="http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/pat01/contents.htm" style="text-decoration: none;"><img border="0" height="181" src="http://www.dharmasite.net/images/bookcover_ptda.jpg" width="135" /></a></div><div align="center" class="MsoNormal"><span lang="FR"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;">Phật Tổ Đạo Ảnh</span></span></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Bây giờ chúng tôi xin giới thiệu <a href="http://www.dharmasite.net/PhatToDaoAnh.htm" style="text-decoration: none;">Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải</a> (Chân Dung Các VịTổ Phật Giáo Giải Thích Bằng Bạch Thoại), là công trình do Hòa Thượng giảng giải trong mười ba năm, trải dài từ năm 1972 đến năm 1985, tổng cộng 346 đề tài. Những nhân vật quan trọng được giới thiệu trong quyển này như sau: từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi xoay cánh hoa và mỉm cười vi tiếu, truyền pháp cho Tôn Giả Ca Diếp; rồi Tôn Giả Ca Diếp truyền tiếp đến Nhị Tổ là Tôn Giả A Nan, và tiếp tục như vậy cho đến vị tổ thứ hai mươi tám là Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người đã mang Pháp Thiền sang nước Trung Hoa và trở thành Sơ Tổ ở Trung Hoa.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Sau tiếp tục truyền đến tổ thứ ba mươi ba (tức là tổ thứ sáu tại Trung Hoa - Lục Tổ Huệ Năng) Đại Sư Huệ Năng, đến lúc đó "một hoa nở năm cánh,” sau đó truyền ra Năm Nhà (Ngũ Gia) cùng Bảy Tông (Thất Tông), đó là Tông Pháp Nhãn, Tông Tào Động, Tông Vân Môn, Tông Quy Ngưỡng, Tông Lâm Tế cũng như phái Hoàng Long và phái Dương Chi.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thêm vào đó là nhánh Ngưu Đầu, những vị thánh tăng của hai nước đông [Trung Hoa] và tây [Ấn Độ], Tông Thiên Thai, Tông Hoa Nghiêm, Tông Từ Ân, Tông Du Già, Luật Tông, Tông Liên Xã, và mười vị cao tăng đương thời, và tổng công là ba trăm ba mươi tám [338] vị cao tăng được giới thiệu. Mỗi vị đều có bài kệ tán (thể thơ tám câu thông dụng của Trung Hoa, mỗi câu có bảy chữ - thất ngôn bát cú). Từ Đại Sư Vĩnh Minh Thọ, là tổ thứ sáu của Tông Liên Xã và tiếp tục đến các cao tăng đương thời, Đại Sư Quảng Khâm, một bài thơ tám câu bốn chữ (tứ ngôn bát cú) khác được thêm vào. Có thể nói rằng ba trăm ba mươi tám (338) vị Tổ đang được tán thán.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Bởi vì nguyên văn được viết theo thể văn chương Trung Hoa và không có chấm câu và thêm vào đó là những "thiền ngữ giác ngộ" nên trở thành khó hiểu thêm. Thật khó mà thăm dò bề sâu cảnh giới bí mật của các vị đại đức thời xưa. Chỉ có thể nói là không thể nói ra được và "chỉ liên hệ đến 'người uống nước mới tự biết nóng lạnh’." </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thật ra sự giải thích của Hòa Thượng về Chân Dung Chư Tổ Phật Giáo thành hình là do những đại nhân duyên. Vào năm 1958, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi quyển sách này đến Hòa Thượng Tuyên Hóa cùng với bức thư trong đó nói rằng: <i> "Thầy gởi con quyển Chân Dung Chư Tổ Sư mà Thầy đã trước tác trong nhiều năm gần đây. Hãy đọc và thuộc quyển sách này và Thầy hy vọng con sẽ được lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người và trân quý Đạo."</i><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thật sự vào ngày 9 tháng 4 năm 1956, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi phiếu điệp đến Hòa Thượng Tuyên Hóa để truyền cho Ngài [Hòa Thượng Tuyên Hóa] là tổ thứ chín dòng thiền Quy Ngưỡng. Trong thư nói rằng: <i> "Con là đệ tử đã quan tâm đến việc bảo tồn Phật Pháp và sự tiếp nối huệ mạng của Chư Phật Tổ. Bây giờ, thuận theo hạnh nguyện của con, Thầy gởi con Nguồn Chỉ, kế thừa mạch huyết Tổ Sư, Đạo của Chư Tổ. Phó chúc cho con, sẽ được thịnh mậu. Hy vọng rằng sự truyền thừa này sẽ bất diệt."</i> Đây là bằng cớ Hòa Thượng Tuyên Hóa đã theo huấn thị của Thầy mình và giải thích Chân Dung Chư Tổ Phật Giáo sang ngôn ngữ dễ hiểu của thời đại ngày nay để chúng sanh có thể được lợi ích của Pháp chưa từng có này. Đây là lý do tại sao tôi xem ba tác phẩm này là sự nghiệp quan trọng nhất của Hòa Thượng. Những chúng sanh may mắn được đọc những Pháp bảo này thật có nhiều phước báo. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Tôi phỏng chừng Hòa Thượng Tuyên Hóa đã làm hơn hai ngàn bài thơ và kệ trong suốt cuộc đời ngài. Mỗi bài kệ đều có vần điệu và là bằng cớ về trí huệ Bát Nhã thâm sâu của Hòa Thượng.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Điều này đặc biệt đúng đối với những bài kệ về Chú Lăng Nghiêm chưa từng có trước đây; chỉ những người thật sự thâm nhập Lăng Nghiêm Định mới có khả năng giải thích như vậy. Ngoài ra sự giải thích của Hòa Thượng về Chân Dung Chư Tổ Phật Giáo có lúc vượt ra ngoài sử liệu, làm độc giả thắc mắc là có phải Hòa Thượng có thần thông biết được tiền kiếp (Túc Mạng Thông) hay không ?</span><span lang="FR"><o:p> </o:p></span></span> </div><div align="justify" class="MsoNormal"></div><table border="0"><tbody>
<tr><td align="center" bgcolor="#99FF66" width="33%"><div align="center"><a href="http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/WaterMirror1/contents.htm" style="text-decoration: none;"><span style="font-family: Tahoma;"><img border="0" height="189" src="http://www.dharmasite.net/images/ThienDeVuong.jpg" width="139" /></span></a></div></td><td align="center" bgcolor="#99FF66" width="33%"><div align="center"><a href="http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/WaterMirror2/contents.htm" style="text-decoration: none;"><span style="font-family: Tahoma;"><img border="0" height="187" src="http://www.dharmasite.net/images/ThienHienThanh.jpg" width="130" /></span></a></div></td><td align="center" bgcolor="#99FF66" width="34%"><div align="center"><span style="font-family: Tahoma;"><a href="http://www.drbachinese.org/online_reading/sf_others/WaterMirror3/contents.htm" style="text-decoration: none;"><img border="0" height="189" src="http://www.dharmasite.net/images/ThienVanSi.jpg" width="134" /></a></span></div></td></tr>
</tbody></table><br />
<div align="center"><span lang="FR"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;">Thủy Kính Hồi Thiên Lục</span></span></div><div align="center"> </div><b><a href="" name="4"><span style="color: navy;"></span></a><span style="color: navy; font-family: Arial;">Chương Bốn: Lão Tử và Trang Tử</span></b><br />
<span style="color: navy; font-family: Arial;"><br />
Lý do chương này được gọi "Lão Tử và Trang Tử" vì có liên hệ nhiều đến triết lý của Lão Tử hiện diện trong những khai thị và thực hành của Hòa Thượng. Trong Thủy Kính Hồi Thiên Lục, Hòa Thượng đề cập về cảnh giới của Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp: “Hóa thân thành Lão Tử, rong chơi khắp Trung Hoa; Đón kẻ hữu duyên đăng bỉ ngạn.” Dĩ nhiên Hòa Thượng nhận ra Lão Tử là hóa thân của Tôn Giả Ca Diếp. Mặc dầu Lão Tử chỉ để lại năm ngàn lời, những lời này đã được nhiều thế hệ hành giả và phàm phu trân quý sâu xa và thích thú. Nhiều điều Hòa Thượng nói và làm phù hợp với Lão Tử. Ví dụ Lão Tử nói: “Lời thật thì nghịch tai. Lời thật thì không đẹp; lời đẹp thì không thật. Chân chánh thì có giá trị; vẻ đẹp thì rẻ tiền. Phản là động của Đạo, nhu là dụng của Đạo.” Hòa Thượng thường dùng tâm lý tương phản để thức tỉnh chúng sanh. Một ví dụ là khi được hỏi về việc giết côn trùng trong nhà, Hòa Thượng trả lời:<o:p></o:p></span><br />
<blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">“Tôi là một con côn trùng, tôi là con kiến. Quý vị giết tôi cũng không sao, nhưng quý vị không nên giết những con côn trùng đó. Nếu quý vị muốn diệt côn trùng, trước hết hãy diệt tôi.”</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Điều đó cho thấy tâm từ bi bình đẳng của Hòa Thượng như thế nào!</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Suốt cuộc đời Hòa Thượng dùng Sáu Đại Tông Chỉ: <b>Không Tranh, Không Tham, Không Mong Cầu, Không Ích Kỷ, Không Tự Lợi, và Không Nói Dối</b> để giáo hóa chúng sanh (thật ra đây chính là Năm Giới). Nhiều Phật tử không xem những tông chỉ này một cách nghiêm túc, nghĩ rằng ngay cả đứa trẻ lên ba cũng biết những điều này. Như vậy còn cần nói thêm gì nữa ? Tuy nhiên, tôi không biết Hòa Thượng đã nói bao nhiêu lần: "Bất cứ thành tựu nào mà tôi có được trong cuộc đời đều là nhờ tuân theo Sáu Đại Tông Chỉ. Bất cứ người nào muốn tu Đạo đều cần phải theo Sáu Đại Tông Chỉ này."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Phải chăng Lão Tử từng nói: "Đạo của ta dễ hiểu và dễ hành nhưng không có kẻ nào hiểu và hành!" ? Lão Tử còn nói: "Người ta nói Đạo của ta không thể thâm hiểu được, nhưng đó chỉ vì người ta mới khám phá. Nếu họ làm quen lâu hơn, họ sẽ dò đến được cái vi tế của nó". Ngài cũng từng nói: "Đại đạo bình đẳng, ai cũng có thể lên đường dễ dàng."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Tu hành, về căn bản thì rất dễ dàng: "Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa." Nhưng người ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm "mật pháp" để tu hành. Điều này thật sự làm cho con người càng hồ đồ thêm. Chúng ta không nhận thức rằng "Bí mật nằm ngay trong chúng ta" hay sao ? Nó nằm ngay trong việc theo đuổi dục vọng vật chất và chấp trước của tâm phân biệt; nó nằm ngay chỗ chế ngự nóng giận và từ chối nói dối. Đó là những "mật pháp" tức khắc; đó là Đạo!</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Sáu Đại Tông Chỉ đó, đã được Hòa Thượng thể nghiệm trong suốt đời khổ hạnh; do chính Ngài lập ra hy vọng đóng góp cho điều thiện của thế gian và giúp ích nhân loại. Nhưng người ta không xem những tông chỉ đó một cách nghiêm túc; có khi còn chế diễu. Đúng như Lão Tử đã viết trong Chương 41: "Khi bậc thượng nhân nghe được Đạo, họ đem thực hành. Khi kẻ phàm phu nghe về Đạo, họ có khi chấp nhận có khi chối bỏ. Khi kẻ hạ nhân nghe về Đạo, họ liền chế diễu. Đạo có thể tìm được trong việc không chế diễu và không tự mãn."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Trong suốt cuộc đời mình, Hòa Thượng đã xiển dương triết lý không tranh giống như sự không tranh của Lão Tử. Hòa Thượng thường đề cập bài thơ:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Tranh là tâm hơn thua</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Đi ngược lại với đạo</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Hay sanh ra bốn tướng</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Làm sao được Tam muội.?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Những người thật sự không tranh thì không nóng giận. Họ đã đạt đến mức độ có thể tha thứ và thật sự tha thứ. Hòa Thượng còn nói lên bài thơ nữa:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Việc việc buông thì dễ,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Tánh nóng khó sửa đổi.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thật sự không nóng giận,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Tức có ngọc vô giá.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Lại không buộc lỗi người,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Phiền não không khởi nữa,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Sân hận không kiếm ta.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thường luôn tìm lỗi người,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Khổ mình không thể dứt.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR"><br />
Như vậy đó không phải là lời dạy vô cùng đơn giản hay sao ? Thật sự không tranh đem lại vô số công đức. Nhưng Hòa Thượng đã không có gì nghi ngờ khi bỏ đi câu kết luận của Lão Tử: "Thật hiếm kẻ biết ta; quý thay những kẻ hiểu thấu ta; đó là ngọc thạch hiếm quý của thánh nhân gói trong vải thô."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Thêm vào Sáu Đại Tông Chỉ của Hòa Thượng, có hai bài thơ đáng được tin tưởng và thực hành. Đó là:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Chân thật nhận lỗi mình,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Không bàn luận lỗi người,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Lỗi người là lỗi mình,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR">Đồng thể tức đại bi.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><span lang="FR"><br />
Hết thảy là khảo nghiệm,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Coi thử mình ra sao,<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Ðối cảnh lầm không biết,<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Phải luyện lại từ đầu.<o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Trong Luận Ngữ và Mạnh Tử, các thánh nhân đã dạy [nói với] chúng ta rằng khi sự việc không theo ý mình thì chúng ta hãy xét lại chính mình. Ngoài ra người quân tử thì tìm lại bên trong mình; còn kẻ tiểu nhân thì nhìn vào người khác. Thêm nữa, khi người quân tử phạm sai lầm, thì tự nhận trách nhiệm. Còn khi kẻ tiểu nhân làm sai lầm, thì trách trời. (Tôn Tử). Sự hướng dẫn của Hòa Thượng cũng là quay trở lại và tìm trong chính mình.<o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Đúng là có những lúc người ta kinh ngạc về lời dạy của Hòa Thượng, chẳng hạn như vào ngày 10 tháng 2, năm 1993, khi ngài đeo vải che mặt lúc trở lại Vạn Phật Thánh Thành. Mới biết lý do là vì nhiều đệ tử của Ngài đã vi phạm hạnh ăn ngày một bữa lúc ngọ và hạnh luôn mặc áo giới. Với lòng đau buồn, Hòa Thượng đeo vải che mặt khi trở lại Thánh Thành. Ngài nói:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Trước khi đi Đài Loan, tôi biết rằng tất cả những tông chỉ mà tôi thiết lập từ ngày thành lập Vạn Phật Thánh Thành sẽ bị quét sạch; tôi biết rằng người ta sẽ không tôn kính các tông chỉ này. Điều này đã làm cho tôi vô cùng thất vọng và không thể đối diện với tất cả quý vị. Do đó tôi đeo vải che mặt để tránh nhìn thẳng vào mặt quý vị.”</span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Trường hợp này của Hòa Thượng là chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo. Chưa bao giờ có vị Thầy đeo vải che mặt. Thật ra, chúng ta là những đệ tử đã vi phạm giới luật thì đáng lẽ chúng ta phải tự che mặt của mình, chứ không phải Thầy của chúng ta. Sự phán xét của riêng tôi về vấn đề này là điều này xác nhận rằng Hòa Thượng đã đến cảnh giới "vô ngã".<o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Một ví dụ khác về lời dạy đã làm kinh ngạc đệ tử xảy ra vào mùa xuân năm 1992 tại Vạn Phật Thánh Thành khi có buổi Đại Hội Vô Già (Không Che Đậy) xưa nay chưa từng có được tổ chức tại chùa. Trong buổi họp mặt đó, Hòa Thượng nói rằng: </span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Tôi đã đau lòng tự đánh mình. Tôi tự đánh tôi nhiều lần đến mức bất tỉnh. Bởi vì tôi thiếu đức hạnh, nên các đệ tử tôi dạy mới ra nông nỗi như thế này. Nếu quý vị sám hối chân thật, thì bất cứ lỗi lầm nào quý vị đã gây nên, tôi đều nguyện tự mình nhận lãnh tất cả. Nhưng nếu quý vị không nói lời chân thật, và mong vào địa ngục sớm hơn một chút, thì tôi không có cách nào để cứu quý vị. Hãy nói sự thật, hay dùng tâm chân thật của quý vị để sám hối thì tất cả quả báo nghiệp chướng mà đáng lẽ quý vị phải thọ lãnh trong địa ngục, tôi sẽ nhận chịu hết.”<o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Theo tôi biết, chưa có vị Thầy nào tự đánh mình vì đệ tử không hiếu thuận. Điều này thật vô cùng đau lòng. Hòa Thượng đã áp dụng đạo lý "lỗi người là lỗi mình; đồng thể tức Đại Bi" có thể nhìn là thấy ngay. Điều này đã được mô tả trong Phẩm 25 của Kinh Hoa Nghiêm:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">“Tôi nên vì chúng sanh, chịu hết tất cả đau khổ của họ để họ có thể thoát được vực thẳm của sanh tử vô tận. Tôi nên vì tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới và trong các nẻo ác, chịu thế tất cả các đau khổ của họ suốt đến vị lai. Tôi thà chính mình chịu khổ thay cho tất cả chúng sanh hơn là để cho chúng sanh đọa vào địa ngục. Tôi thà chịu thế cho chúng sanh đang bị nguy nan ở trong địa ngục, trong loài súc sanh, hoặc trong các xứ vua A Tu La để tôi có thể cứu chuộc các chúng sanh trong nẻo ác, giúp họ thoát ra và được giải thoát."<o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Tôi nhớ khi Lão Cư Sĩ Lý Bình <st1:place w:st="on"><st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region> </st1:place>còn sống, có lần một đệ tử đưa một cây roi dài và nhờ Thầy đánh mình. Thay vì làm theo, Lão Cư Sĩ lấy cây roi từ người đệ tử và nói: "Xin mọi người đứng dậy. Khi học trò không học, đó là lỗi của Thầy. Tôi sẽ lấy cây roi này và sẽ dùng nó để tự đánh mình." '<i> Điều này đã làm mọi người xúc động sâu xa. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói: <span> </span>“Kiềm chế mình nhiều hơn và buộc lỗi người ít đi. Như vậy sẽ tránh sự hối tiếc.”'</i> (Vệ Linh Công, chương Mười Lăm). Vua Thang đời nhà Thương khi cúng Trời nói rằng: "Xin đứng phạt dân của tôi vì lỗi lầm của tôi, nếu dân của tôi làm sai lầm, lỗi là do chính nơi tôi.”) (Hiệu Nhật, Chương 20). [Ngôn và hành] Lời nói và vịêc làm của những vị thánh nhân này đều tương tự nhau. Họ là gương mẫu, tự chế phục [mình] bản thân, và chỉ bằng cách đó để ảnh hưởng người khác. Hòa Thượng có một bài thơ khác:<o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><br />
Hạo nhiên chánh khí trùm trời đất.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Lớn mà chuyển hóa học thánh hiền.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Khi làm không thành, tìm chính mình.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Hồi quang phản chiếu, đừng phan duyên.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Làm như kẻ khờ, đừng quá khôn.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Chăm quét bụi tâm, bỏ toan tính.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Nếu luôn nhắc nhở mình như vậy,<o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Không lâu Phật pháp đầy vũ trụ.<o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;"><br />
Cuối cùng, hãy thảo luận triết lý của Hòa Thượng về lễ lạy. Hòa Thượng có lần nhắc rằng bí mật của suốt đời tu hành của Ngài là lạy kẻ khác và chịu phần thua thiệt. Hòa Thượng thường nói với những đệ tử mới quy y: "Là đệ tử của tôi, quý vị phải học tánh kiên nhẫn và đừng tranh chấp. Nếu người ta đánh đập quý vị, quý vị hãy chấp nhận. Nếu người ta la mắng quý vị, quý vị hãy lạy họ. Hãy luôn sẵn sàng chịu sự thua thiệt. Nếu người ta la mắng tôi, quý vị nên lạy họ. Dầu người ta lăng mạ tôi như thế nào đi nữa, quý vị không nên bào chữa cho tôi."<o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Tại Hoa Kỳ, Hòa Thượng thường lạy đệ tử của mình. Nếu có những đệ tử không vâng lời, Ngài sẽ lạy họ, và họ sẽ sửa đổi. Trong những năm đầu tại Hoa Kỳ, có một tối nọ Hòa Thượng đang giảng tại Diệu Ngữ Đường ở Vạn Phật Thánh Thành, không một người xuất gia nào muốn lên phát biểu. Sau buổi giảng, trong khi đại chúng tuần tự ra khỏi Diệu Ngữ Đường trở về Phật Điện, Hòa Thượng quỳ bên cửa và nhìn mọi người đi ra. Ngài tự phạt mình và dạy bài học không lời. Đó thật là "Tu hành trong thời đại không gian", khi Thầy lại lạy đệ tử của mình. Điều này cho thấy Hòa Thượng đã đạt được tinh thần vô ngã. Tuy nhiên, Hòa Thượng thường hướng dẫn đại chúng bằng cách tự mình quỳ và lắng nghe những bài thuyết pháp của các vị khách tăng đến Vạn Phật Thánh Thành. Ngài chắc chắn không kiêu ngạo, như một số tin đồn có thể nói như vậy. Hòa Thượng đã bắt đầu lạy chúng sanh từ lúc Ngài 12 tuổi (Ngài lúc đó không lạy Phật). Mỗi ngày Ngài lạy trời, đất, cha mẹ, thầy, người lớn tuổi, côn trùng, kiến, v.v... tổng cộng 1670 lạy. Điều này chắc chắn người thường không làm nổi.<o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy; font-family: Arial;">Ngày nay các Phật tử chỉ biết lạy Phật bên ngoài. Họ không lạy Phật trong tâm của họ, cũng không sám hối và nhận lỗi của mình trước cha mẹ và chúng sanh, do đó sự thực hành không viên mãn. Chúng ta phải học lạy cha mẹ và tất cả chúng sanh mỗi ngày. Chúng ta nên liên tục "Tìm cầu bên trong mình, phản chiếu trở lại, lắng nghe tự tánh". Chúng ta hãy "Thấy người hiền thì cố gắng bắt chước, thấy người không phải hiền thì tự xét mình". </span></div><div style="margin-bottom: 12pt;"> </div><span style="font-family: Arial;"><b><span style="color: navy;">Chương Năm: Sanh Tử</span></b><o:p></o:p></span><br />
<span> </span><o:p></o:p><br />
<div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Mục đích tối hậu của Phật Pháp là giúp chúng ta chấm dứt sanh tử. Có nhiều cách để làm việc này, nhưng có những điều chúng ta cần phải biết. Người xưa nói : "Nếu không trừ bỏ ái dục, thì không thể sanh về Cực Lạc được. Nếu nghiệp không nặng, thì không phải sanh ra ở cõi Ta Bà." Nếu ái dục không chặt đứt, thì không thể nào chấm dứt sanh tử. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu dâm tâm không trừ, không thể ra khỏi trần lao.". Ngoài ra Kinh này còn nói: "Nếu chúng sanh trong sáu nẻo không có dục niệm trong tâm, họ sẽ không còn tiếp tục sanh tử." Kinh Viên Giác nói: "Người ta cần biết rằng luân hồi là do ái dục. Do đủ loại dục, sanh ra ái, cứ sanh tử mãi." Kinh Ly Mị (... chương bốn mươi mốt "Dứt Hoặc Kiến Phật"): "Nếu có những chúng sanh trồng thiện căn, tạo phước đức lớn, nhưng còn chấp tướng, còn phân biệt, và còn chấp trước tình cảm sâu đậm, họ cuối cùng vẫn thất bại trong việc tìm cách thoát khỏi luân hồi." Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Dục là nguồn gốc của dòng sanh tử và là nhân làm xa rời giải thoát."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Tất cả các kinh điển và sách chú giải dường như đều chỉ rõ ràng rằng dục là gốc rễ của sanh tử. Suốt đời Hòa Thượng luôn xiển dương giáo dục, vì Ngài tin rằng con người đạo đức được sinh ra từ những hôn nhân tốt đẹp, và hôn nhân tốt đẹp thì do sự hỗ tương trung thành và tránh ngoại tình. Những giá trị này cần phải được củng cố ở trẻ em từ lúc nhỏ. Chúng ta phải giáo dục các em quan hệ chánh đáng và không quan hệ bừa bãi.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng. Các loại bệnh kỳ lạ và thảm họa trên thế giới đều gây ra bởi giết hại và dâm dục. Mặc dầu có lẽ nhiều người không thích nghe hay không thích thảo luận về đề tài này, Hòa Thượng nói: "Những gì quý vị phản đối nhiều nhất, thì đó là điều tôi muốn nói nhiều nhất. Như thế cả hai chúng ta sẽ có công việc để làm." Suốt đời Hòa Thượng luôn sách tấn mọi người tránh xa tà dâm và ái dục. Ngay cả vào năm Ngài viên tịch, Ngài vẫn còn nhắc nhở: "Dục là điều xấu ác nhất trong các điều ác; đừng đi trên con đường tử lộ đó.” “Người ta sanh ra từ ái dục và chết vì ái dục.”, “Con trai không nên tìm kiếm bạn gái trước khi được hai mươi lăm tuổi. Con gái không nên tìm kiếm bạn trai cho đến khi ít nhất hai mươi tuổi."<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hòa Thượng nói về những phương pháp giáo dục cổ điển tại Vạn Phật Thánh Thành, có trường riêng biệt cho nam sinh và nữ sinh. Điều này khuyến khích con người tự kềm chế và tránh quan hệ bừa bãi, tránh phá thai và ngừa thai. Ái dục là nguyên nhân chính của sự suy đồi trên thế giới. Hòa Thượng nói:</span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">“Con người có chết vì tiền không ? Không! Sự ham muốn giàu có thật sự là do ái dục điều khiển. Con người chết vì ái dục. Câu ngạn ngữ ‘Người ta chết vì tiền’ là sự nói lệch đi, những người Trung Hoa không muốn phơi bày điều đó ra. Họ biết đó là sai, nhưng không nói ra. Họ chỉ muốn tự lừa dối <span> </span>chính họ. Như có câu nói: ‘Thuốc hay thì đắng, nhưng chữa được bệnh. Lời thật tuy khó nghe, nhưng có thể giúp người sửa đổi hành vi.’ Tôi không đành nhìn người ta bị bệnh AIDS (SIDA), do đó tôi phải nói lên điều này."</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Ngài còn nói:</span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">"Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu cho quý vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý vị cũng chỉ phí thời gian trong Đạo Phật và tạo nghiệp chướng với mỗi bữa ăn mình thọ dụng."</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Mỗi ngày trên báo chí đăng đầy dẫy những bài tường thuật về các vụ giết người, trộm cắp, tà dâm, gian dối. Giết người và tà dâm đặc biệt rất phổ biến. Hòa Thượng nói: "Về luật nhân quả, tà dâm là tội nặng nề nhất và bị trừng phạt nặng nhất. Theo luật nhân quả, khi người ta làm hạnh tà dâm bao nhiêu lần trong đời, thì bấy nhiều lần bị cái cưa khổng lồ cưa xẻ từ đầu đến chân. Nếu một người kết hôn một trăm lần, người đó sẽ bị phân chia một trăm lần lúc chết." Trong Bài Viết của Đại Sư Ấn Quang, Đại Sư có những lời nghiêm khắc :</span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">"Những người làm hạnh tà dâm là dùng thân người làm hành vi thú vật. Khi sanh mang họ chấm dứt, họ sẽ bị đọa vào các địa ngục và sau đó tái sanh vào loài thú vật, và qua hàng ngàn tỉ kiếp vẫn không thể thoát ra được. Bởi vì tất cả chúng sanh sanh ra từ ái dục, giới này khó giữ nhưng dễ phạm."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">"Những người làm hạnh tà dâm không biết tự trọng hay xấu hổ. Họ thật dơ bẩn xấu xa đến cực điểm. Với thân người, họ hành xử như thú vật. Họ đã trở thành thú vật trong khi còn sống, và trong kiếp kế tiếp họ sẽ bị sanh làm thú vật ... Những người làm hạnh tà dâm chắc chắn sẽ sinh những đứa con không biết giữ hạnh tiết dục... Những người hủy hoại thân thể bằng thủ dâm - dầu không làm hạnh tà dâm với kẻ khác - họ vẫn phải đọa đại địa ngục. Sau khi ra khỏi địa ngục, họ có thể đầu thai thành chim én hay quạ. Nếu sanh làm người, họ trở thành đĩ điếm.."</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Có người có thể nghĩ rằng lời của chư Tổ là nói quá đáng hoặc sửa quá đáng lỗi lầm, nhưng ở đây không phải như vậy. Chúng sanh trong thời Mạt Pháp đã làm quá nhiều điều ác mà nếu sự sửa đổi không quá đáng, thì sẽ không hữu hiệu. Quý vị chưa từng đọc "Teng Weng Gong" [? Văn Công] phần II của Mạnh Tử hay sao?. Trong đó nói rằng: "Thời đại thì xấu xa, và Đạo thì yếu kém; lời dạy tà vạy và hành vi bạo loạn khắp nơi. Quan tướng thì giết chủ, con giết cha. Khổng Tử đã lo sợ và viết Sách Xuân Thu". Có thể thấy rằng lòng người đã quá suy đồi trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, thời Mạt Pháp thì còn suy đồi hơn biết bao nhiêu ? Chư Tổ nói lên những lời đó là có lý do; chúng ta không nên nghi ngờ và bàn luận về những lời đó. Như Lão Tử nói: "Lời thật thì có vẻ nghịch lý."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Có thể có kẻ nói rằng: "Con người là một sinh vật tình cảm. [Sự ham muốn] thức ăn và tình dục là một phần của bản tánh." Đó cũng chính là lý do chúng ta phải tu hành! Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương nói rằng: "Hãy xem những người phụ nữ cao niên như mẹ của mình, xem những người lớn tuổi hơn mình như chị của mình, xem những người trẻ tuổi như em gái của mình, và xem người nhỏ tuổi như con gái của mình. Phát tâm cứu họ, và diệt những tà niệm đi." Đoạn này không bảo quý vị hãy ghét người khác, nhưng để nhận ra Trung Đạo là không yêu, không ghét; thực hành Trung Đạo tức là xem bạn và thù đều như nhau và xem nam nữ đồng nhau.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span> </span><o:p></o:p></div><div align="justify"><a href="" name="6"></a><span style="font-family: Arial;"><b><span style="color: navy;">Chương Sáu: Bát Nhã</span></b><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;"><br />
Nhiều câu trả lời của Hòa Thượng cho các câu hỏi của người khác đã được ghi lại. Mỗi khi Hòa Thượng trả lời câu hỏi của người khác, câu trả lời của Ngài luôn luôn là câu "bất ngờ," làm kinh ngạc mọi người, làm họ được pháp hỷ, vỗ tay khen ngợi. Những câu trả lời hài hước của Hòa Thượng luôn luôn mang những thiền vị ẩn tàng làm người hỏi bị một cú đấm đúng lúc vào đầu và chỉ thẳng vào tâm.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Một đoạn trong Kinh Lục Tổ (Pháp Bảo Đàn), phẩm thứ 8 "Đốn Tiệm", soi sáng những khôi hài Bát Nhã của Hòa Thượng : "Người thấy tánh lập ra (muôn pháp) cũng đặng, chẳng lập ra cũng đặng. Ði lại tự do, không ngừng không ngại, phải chỗ dùng thì tùy cơ mà làm, phải chỗ nói thì tùy cơ mà đáp, hiện khắp hóa thân mà chẳng lìa tánh mình, tức là đặng Tự tại thần thông, Du hý Tam muội. Ấy gọi là thấy tánh."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Ý nghĩa của đoạn này là người giác ngộ, kẻ thực sự hiểu rõ tâm mình, có thể lập ra phương pháp hoặc không lập ra, tuỳ ý họ muốn. Họ có thể đến và đi tùy ý, không bị chướng ngại. Điều này cho thấy tự tại về sanh tử. Nếu người nào hỏi họ một câu hỏi, họ có thể trả lời không cần suy nghĩ, những câu trả lời có đạo lý và không vô lý. Lúc đó, hóa thân của họ khắp nơi, tuy nhiên họ lại không rời tự tánh. Khắp nơi khắp chốn, họ quán tự tại và có đủ Ngũ nhãn Lục thông. Những người thấy tánh có thể trả lời các câu hỏi ngay khi vừa được hỏi, tuy nhiên không bao giờ trả lời sai hoặc dẫn người ta đi lạc. Dưới đây là một số câu trả lời của Hòa Thượng trả lời những câu hỏi của những người có tín tâm:</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Làm thế nào để chấm dứt sanh tử ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Ăn, mặc áo quần, và ngủ.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hòa Thượng không nói đùa. Thật ra, "Trong mọi cử chỉ, tự xem xét mình. Dù động hay tịnh, ngủ hay thức, đừng đi ra khỏi nhà." Tâm bình thường là Đạo!</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Chúng ta có thể lạy tượng Phật chưa được "khai quang" không ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Nếu ông không có chấp trước trong tâm, thì tượng Phật luôn luôn đã được khai quang. Nếu ông còn chấp trước, thì dù tượng Phật đã được khai quang cũng vẫn giống như chưa khai quang.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Nếu chúng ta đáng lẽ tụng Chú Đại Bi 108 lần mỗi ngày, thì nên tụng Chú Lăng Nghiêm bao nhiêu lần ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. 1800 lần.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Làm sao để ngăn ngừa động đất ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Nếu con người không nổi nóng, thì sẽ không có động đất.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Chúng ta nên tụng kinh hoặc chú gì để dễ dàng đạt được Phật quả.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Tụng kinh “không nổi nóng”, kinh “không la mắng người khác”, và kinh “không nóng giận”. Với ba bộ kinh này, ông sẽ đạt được Phật quả rất nhanh.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Làm sao để loại bỏ dâm dục ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Nếu đừng nghĩ tới, thì sẽ loại bỏ được. Nếu cứ liên tục nghĩ đến, thì làm sao bỏ được ? Ngay khi những niệm này vừa khởi lên, phải biết rõ nó. Một khi biết rõ, thì nó biến mất.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Bạch Hòa Thượng, sau khi viên tịch, Ngài sẽ đi về đâu ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Không chỗ nào cả!</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
Thật ra Hòa Thượng đã đạt được tự tại sanh tử, do đó Ngài "không đến không đi." Do đó Ngài không đi chỗ nào cả. Hòa Thượng đã nói nhiều lần: "Đối với tôi sanh và tử không có gì khác cả." "Tôi có thể sống nếu tôi muốn sống, và chết nếu tôi muốn chết. Tôi tự do chọn lựa sống chết.". "Tôi xem chết và sống giống nhau. Không có gì khác biệt. Tôi có thể quên mình vì Phật Pháp. Đây là bốn phận căn bản của Phật tử."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Làm sao còn có thể phá thủng chấp trước và vọng tưởng ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Ai đem cho ông sự chấp trước ? Ai đem cho ông vọng tưởng ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Câu "Nên sanh tâm không trụ vào đâu cả (Ưng vô sở trụ)" có nghĩa là gì ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Tâm ông ở đâu ? Đầu tiên hết hãy cho tôi biết điều đó.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Làm sao có thể rời Tam Giới và vào cửa giải thoát ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Đ. Một khi không còn ở trong Tam Giới, là ông đã ra khỏi Tam Giới.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;"><br />
H. Bồ Tát Quán Âm từ đâu đến ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">D. Tại sao ông không tự hỏi ông từ đâu đến ?</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
H. Người sợ ma hay ma sợ người ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đ. Nếu trong tâm ông có ma, thì người sợ ma. Nêu trong tâm không có ma, thì ma sợ người.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
H. Làm sao người tại gia có thể "ngủ không nằm" ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đ. Người tại gia trước hết nên thực hành "không khởi tà vạy"</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
H. Làm sao có thể đem Phật Pháp vào cuộc sống hàng ngày ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đ. Bằng cách không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
H. Làm sao đối phó với vấn đề tái sanh ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đ. Tại sao ông lại muốn tái sanh? Ông đang mang theo quá nhiều rác rưởi, làm sao có thể đi được ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
H. Ý kiến Phật Tử tặng cơ phận của cơ thể sau khi chết có phải là ý kiến hay không?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đ. Cho cơ phận sau khi chết không tốt bằng cho cơ phận khi đang còn sống. Như vậy mới chân thật! Nếu chỉ cho khi ông đã chết và không còn dùng đến nữa, thì ích lợi gì ? Vì có câu nói: "Đừng cho người khác cái gì mình không muốn."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
Hiến tặng bộ phận cơ thể là đề tài được thảo luận sôi nổi trong những năm gần đây, và người ta không đồng ý với nhau. Hòa Thượng rất đặc biệt trong quan điểm của Ngài rằng nếu người ta có thể hiến tặng bộ phận của cơ thể mình trong lúc đang còn sống (có thể chịu đựng đau đớn), thì không có vấn đề gì về việc hiến tặng bộ phận cơ thể trước khi chết. Do đó Ngài vẫn giữ ý kiến rằng đừng đợi tới lúc chết để hiến tặng bộ phận cơ thể (lúc đó không ai có thể chắc chắn là họ không hối hận về quyết định của họ bởi vì lúc đó quá đau đớn). Hòa Thượng cũng cho rằng người thật sự tu Bồ Tát Đạo thì nên "cho kẻ khác những cái mình thích."</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"> </div><table align="left" class="imageBorder"><tbody>
<tr><td bordercolor="#330099" class="style21 "><div align="justify"><img border="0" height="370" src="http://www.dharmasite.net/images/ven_master2.jpg" width="116" /></div></td></tr>
</tbody></table><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Có người có lần nói với Hòa Thượng : "Khi con thấy Hòa Thượng tựa người vào cây gậy bởi vì Ngài nhận gánh chịu quá nhiều nghiệp chướng của chúng sanh, còn cảm thấy buồn. Xin Hòa Thượng có thể từ bi trụ thế lâu hơn đuợc chăng ?" Hòa Thượng lập tức liệng cây gậy, làm mọi người vỗ tay, và nói: "Con còn cảm thấy buồn nữa không ?" Đây là một ví dụ của Bát Nhã Vi Diệu của Hòa Thượng là "Giữa tướng quét sạch các tướng." Như vậy không thú vị hay sao ?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trong suốt cuộc đời, Hòa Thượng luôn nhấn mạnh "đừng nổi nóng" và "tu nhẫn nhục", bởi vì "Phật Pháp không lìa thế gian. Tìm Bồ Đề ngoài thế gian cũng giống như tìm sừng thỏ." Hòa Thượng nói:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">“Quý vị chỉ có thể tiêu trừ hoạn nạn khi nào không còn phiền não. Quý vị chỉ có thể sống lâu hơn nếu không nổi nóng.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Nếu một người không nổi nóng, tất cả nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ.”</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Hòa Thượng cũng làm hai bài chú rất hay:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
Kiên nhẫn! Kiên nhẫn! Phải kiên nhẫn! Đừng nóng giận, ta bà ha.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
Nếu ông không nổi nóng,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Ông có thể tránh muôn bệnh.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Đó là thuốc trị bá bệnh,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Để trên kệ cao bị lãng quên!</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Ta bà ha.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
Khi Hòa Thượng trở lại Vạn Phật Thánh Thành mang khăn che mặt (xem chi tiết trong nguyệt san Vajra Bodhi Sea số 275), một trong các đệ tử của Ngài không đành lòng thấy như vậy nên đến giật tấm khăn che mặt của Hòa Thượng ra. Hòa Thượng nói khôi hài: "Nếu ông lấy khăn che mặt của ta, ta có thể đeo lên khăn khác. Ta đã chuẩn bị năm cái. Ta có cái màu xanh, cái màu vàng, cái màu đỏ, cái màu trắng, và cái màu đen. Đến năm cái lận!"</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trên bề mặt không có vẻ gì nhiều, nhưng thật ra đây không phải là trường hợp tầm thường. Tôi tin rằng đây là trường hợp giảng dạy Bát Nhã của Hòa Thượng bằng cách làm gương. Giật khăn che tượng trưng "đập nát các tướng" và tìm lại "khuôn mặt nguyên thủy (bổn lai diện mục)”. Năm màu tượng trưng năm uẩn. Ngài thử nghiệm đệ tử để xem <span> </span>họ có thể phá năm uẩn và sanh tâm không trụ vào sắc tướng tương đương với việc phá ba tường thành trong Thiền tông. Như câu: "Thấy sự hiểu sự, vượt thế gian. Thấy sự mê sự, đọa trầm luân." Có ai trong chúng ta đã giác ngộ chưa ? Nếu quý vị đọc những câu trả lời và khai thị của Hòa Thượng với sự chú tâm cẩn thận, thì trí tuệ nội tại của quý vị sẽ phát khởi dễ dàng hơn, bởi vì "Lời rộng và giải thích chi tiết tất cả đều diễn bày sự thật tột cùng". Hòa Thượng thường nói:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">“Đừng tin tôi, và đừng tin Phật. Hãy tin vào trí tuệ của chính quý vị. Hãy khám phá Bát Nhã ngay trong tự tánh, và như thế quý vị sẽ đạt được Trạch Pháp Nhãn. Nếu đó là Đạo, hãy tiến tới. Nếu không phải, hay thối lui. Đừng mang nón mà nghĩ đó là giày.”</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div></blockquote><div align="justify"><span> </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><b><span lang="FR" style="color: navy;"><a href="" name="7"></a><span style="font-family: Arial;">Chương Bảy: Thần Dị</span></span></b><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"></span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;"><br />
Thần thông là gì ? "Biến hóa khôn lường là ‘thần’; không chướng ngại là ‘thông’. Đó là khả năng làm người khác không thể hiểu được, đồng thời có thể làm bất cứ điều gì mình muốn mà không gặp trở ngại. Hòa Thượng còn nói: "Diệu dụng khó nghĩ bàn là ‘thần’, tự do tự tại không ngăn ngại là ‘thông’". Những người chân thật đắc thần thông có Ngũ Nhãn và Lục Thông. Trong Phật Giáo, Ngũ Nhãn và Lục Thông là cảnh giới Bát Nhã tự nhiên hiển hiện khi hành giả tu vô lậu và tiến về giác ngộ; điều này không được xem là phi thường. Sự khác biệt là cái nhìn của hành giả có chân chánh hay không. Hành giả phải trì giới thanh tịnh và ngăn ngừa tham lam, để không đi sai đường.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Thật ra, thần thông đơn giản là sự thông suốt của tự tánh. Mọi người bên trong đã có sẵn đầy đủ Phật tánh cùng với Ngũ Nhãn Lục Thông, nhưng đã bị ngăn che bởi vô minh và phiền não. Dĩ nhiên khi Phật còn tại thế, Ngài đã cấm đoán mọi người là không được biểu diễn thần thông của mình, nhưng Ngài cũng không cấm đoán con người không nên hiển lộ thần thông. Nếu Bồ tát có thần thông mà không hiển lộ để phương tiện giáo hóa chúng sanh, thì thần thông để làm gì ? Đức Phật chỉ sợ rằng người ta "tùy tiện" biểu diễn thần thông, hoặc dùng thần thông để lừa dối kẻ khác và đưa họ vào cảnh giới tà ma (đã mô tả rõ ràng trong Chương "Năm Mươi Ấm Ma" của Kinh Lăng Nghiêm).</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Phần kinh này có nói: "Nếu hành giả không nghĩ mình là chứng Thánh, thì đó là cảnh giới tốt. Nếu cho rằng đó là chứng Thánh, thì sẽ bị làm quyến thuộc của ma". Câu này rất quan trọng!</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Nhiều người có ấn tượng rằng Hòa Thượng là người biểu diễn thần thông. Những câu chuyện kỳ diệu trong suốt cuộc đời của Hòa Thượng thật quá nhiều để có thể tính đếm được. Tôi sẽ đề cập ba trường hợp để mọi người cùng nghiên cứu. Quý vị có tin hay không là tùy quý vị. Mọi người có lẽ đã nghe ba câu nói [nổi tiếng] bất hủ dưới đây của Hòa Thượng:</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Ngày nào tôi còn ở Hương Cảng, thì tôi không cho phép bão lớn tới Hương Cảng.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Ngày nào tôi còn ở <st1:city w:st="on">San Francisco</st1:city> , thì tôi không cho phép <st1:place w:st="on"><st1:city w:st="on">San Francisco</st1:city> </st1:place>có động đất.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Ngày nào tôi còn ở đây, thì tôi không cho phép thời kỳ Mạt Pháp xảy đến.</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Nếu chúng ta nghiên cứu những câu này kỹ càng, chúng ta thấy rằng những chữ "tôi không cho phép" không phải nói đến "thần thông", nhưng là những hạnh nguyện từ bi của một vị Bồ Tát Đại Thừa. Bồ Tát Địa Tạng không từng nói: "Địa ngục chưa trống không, tôi nguyện chưa thành Phật" hay sao ? Ai có thể biết được biết bao nhiêu máu, mồ hôi, và nước mắt đã đổ ra để hoàn thành lời nguyện này ? Hơn nữa, vì Hòa Thượng nghiêm ngặt giữ giới không nói dối suốt cả đời, do đó lời nói của Ngài tự nhiên có những ảnh hưởng phi thường. Hòa Thượng có lần nói: "Không nói dối là bài chú hữu hiệu nhất". Đúng như vậy, đó là pháp môn vi diệu nhất!</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Về việc động đất tại San Francisco, ngoại trừ trận động đất lớn xảy ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1989 (lúc đó Hòa Thượng đang ở Đài Loan), từ năm 1968 cho đến nay, San Francisco không có trận động đất nào lớn. Hòa Thượng khiêm tốn nói rằng: "Những chuyện lớn thì tôi không làm gì được nhiều, nhưng những chuyện nhỏ như động đất thì tôi có thể đối phó được. Dĩ nhiên là đã có những trận động đất nhỏ, nhưng những trận động đất không gây thiệt hại thì không tính đến. Nếu tôi không có gì để nương tựa vào, nếu không nhờ chư Phật và chư Bồ Tát mười phương cũng như trời rồng và tám bộ chúng hộ trì Pháp của tôi, làm sao tôi dám có lời tiên tri như vậy ?"</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Có một trường hợp khác liên quan đến bài báo trong số 437 của báo Bodhi Tree, tựa đề "Một vài ý nghĩ về chuyến viếng thăm Mã Lai Á Lần Thứ Ba của Phái Đoàn Vạn Phật Thánh Thành và Đại Học Phật Giáo Pháp Giới". Bài báo được viết bởi Pháp Sư Jingguan, một đệ tử lâu năm của Lão Pháp Sư Guanghua, người đã đặc biệt nghiên cứu Kinh Kim Cang và đã được thấu hiểu đặc biệt thẳng vào các câu "Các tướng như huyễn" và "Nên sanh tâm không trụ vào đâu cả". Trong bài viết này, Pháp Sư đề cập rằng Hòa Thượng đã chữa bệnh ung thư mũi của Pháp Sư, một bịnh mà Pháp Sư đã chịu đựng trong nhiều năm, và "bệnh khô cổ ". Cuối bài viết Pháp Sư kể lại rằng lúc đang nằm ngủ theo thế nằm trong phòng mình, Pháp Sư đột nhiên cảm thấy mình bị ép giữa hai cái chân khổng lồ, và giữa không trung có tiếng của Hòa Thượng nói rằng: "Hồi nào ông có nói với tôi là muốn trở về Vạn Phật Thánh Thành với tôi để tu hành ? Tại sao ông lại ngủ nhiều như vậy ?"<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Khi Pháp Sư tỉnh giấc, ông nói: "Kinh nói rằng Đức Phật có thân vàng cao sáu mươi bộ. Hôm nay tôi thấy Hòa Thượng xuất hiện cũng cao chừng đó, ánh sáng vàng chói lòa, cao lớn khổng lồ... Đó có phải là giấc mơ không ? Nhưng nó rất rõ ràng trong tâm trí tôi, và đầu óc tôi vẫn còn thấy rõ. Về căn bản "Chân thật nghĩa không thể diễn tả bằng lời", thật là vi diệu và không thể diễn bày, như vậy tại sao tôi phải nói ra ? Thấy được hoa Ưu đàm hiếm có nở hoa còn dễ dàng, nhưng rất khó gặp được vị thầy thiện trí thức.". Vì lý do đó, tôi đã kể lại rõ ràng về căn bản một cảm ứng không thể diễn bày. "Chân thật nghĩa" phải để lại cho độc giả tự kinh nghiệm lấy.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Một ví dụ cuối cùng xảy ra vào năm 1984 khi Hòa Thượng đang hoằng pháp tại Tân Gia Ba. Trước khi Hòa Thượng rời Hoa Kỳ, Ngài đã hứa với một nữ cư sĩ tại <st1:place w:st="on"><st1:city w:st="on">San Francisco</st1:city> </st1:place>là Ngài sẽ đến xem nhà của bà. Nhưng sau khi hứa như vậy, Hòa Thượng lại đi Tân Gia Ba trong chuyến hoằng pháp. Tuy nhiên, vào ngày Hòa Thượng đã hứa, hai đứa con của người phụ nữ, năm và sáu tuổi, đã thật sự trông thấy Hòa Thượng đến nhà và nhìn chung quanh. Do đó, Thầy Hằng Cung có nói: </span>"<span style="color: navy;">Đức độ của Hòa Thượng thật thâm sâu. Những người chưa gần Ngài thì không biết điều này. Quý vị có biết tại sao chúng ta lại để cái ghế trống này ở giữa ? Bởi vì không ai biết Hòa Thượng ở đâu. Hơn nữa, chúng tôi đều cảm thấy hơi bồn chồn và sợ hãi khi ngồi trên đây." Vị Thầy này cũng để cập rằng khi Thầy Hằng Thật và Thầy Hằng Triều đang đi Ba Bước Một Lạy, những người cảnh sát Hoa Kỳ thường đến gần và nói : "Tôi thấy ba người quý vị lạy ngày hôm qua. Một người là người đàn ông Trung Hoa lớn tuổi lạy đàng sau hai ông. Tại sao hôm nay ông ta không có ở đây ?"</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Tôi không biết quý vị có tin ba trường hợp vừa đề cập ở trên không, trong đó Hòa Thượng cho người ta cảm giác rằng Ngài có thần thông. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ trong phẩm 17 "Công Đức Sơ Phát Bồ Đề Tâm": "Trụ trên con đường tối thượng của Nhất Thừa, người đó thâm nhập diệu thượng Pháp. Hiểu rõ lúc nào chúng sanh đã sẵn sàng và lúc nào chưa, người đó thị hiện thần thông để làm lợi ích cho họ." Tôi đã đọc và nghe tất cả những bài khai thị và băng giảng của Hòa Thượng, và tôi không bao giờ gặp một trường hợp nào Hòa Thượng nhận rằng Ngài có thần thông. Hòa Thượng nói:</span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">"Thần thông chỉ là một tên khác của Trí Tuệ. Nếu quý vì có trí tuệ, quý vị sẽ tự nhiên có thể thấy toàn vũ trụ như hạt amalo trên lòng bàn tay.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Trong Phật Giáo, thần thông chỉ là đồ phụ, không phải là vật chính. Bất cứ người nào nhấn mạnh về thần thông thì đều vô cùng vô minh. Tôi sẽ nói rõ ràng với quý vị, tôi không có thần thông; ngay cả đến ma thông tôi cũng không có. Sự nhận bừa quá mức không phải là điều tôi thích.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Những người hiểu Phật Pháp nên chú tâm vào không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối. Nếu quý vị tìm Ngũ Nhãn Lục Thông hoặc những thứ tương tự, quý vị chỉ "tìm cá trên cây".</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Việc Hòa Thượng có thần thông thật ra được tiết lộ bởi Lão Hòa Thượng Quảng Khâm. Vào ngày 8 tháng 6 năm 1980, Hòa Thượng gởi hai đệ tử đến viếng thăm Lão Hòa Thượng Quảng Khâm. Tới đó, Lão Hòa Thượng Quảng Khâm hỏi: "Thầy các ông có thần thông phi thường. Ngài có thường dạy thần thông cho các ông không ?”</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hai người đệ tử trả lời: "Thần thông không thể được dạy. Thần thông xảy ra tự nhiên khi tu hành đến mức độ nào đó. Hơn nữa, thần thông không thể giúp chấm dứt sanh tử. Đó không phải là mục tiêu tối hậu mà Đạo Phật nhắm đến."</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Từ sự đề cập của Lão Hòa Thượng Quảng Khâm về thần thông của Hòa Thượng, có thể suy dẫn ra là Hòa Thượng thật sự có thần thông. Nếu những gì quý vị biết về Hòa Thượng chỉ là về thần thông của Ngài, thì điều đó thật đáng thương; có thể nói rằng quý vị không phải là đệ tử chân thật của Hòa Thượng. Hòa Thượng theo như tôi biết, không phải là người chỉ có Ngũ Nhãn Lục Thông, mà là một vị lớn tuổi chân thật, từ bi và vô ngã. Vào mùa xuân 1993, khi Hòa Thượng trở về Vạn Phật Thánh Thành và mang khăn che mặt do xấu hổ vì đệ tử đã vi phạm truyền thống của Vạn Phật Thánh Thành, Ngài thật sự nói, "Tôi mang khăn che mặt, tôi không thể thấy rõ ràng!" và sau đó, vì như vậy, Hòa Thượng đã "tình cờ" đánh "sai" người.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Do đó tôi xem xét việc Hòa Thượng là một vị thầy dùng gậy tự đánh mình, người đã lấy và xin tánh nóng của những người khác, người đã nhịn ăn để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, người đã đi khắp nơi để nói pháp ngay cả khi đang ngồi xe lăn, và là người đã lạy chúng sanh mỗi ngày. Ngài là một hành giả Đại Bồ Tát đã "</span><span style="color: blue;"><a href="http://www.dharmasite.net/VuTruBach.htm" style="text-decoration: none;">Dẫu máu đổ, mồ hôi tuôn,</a></span><a href="http://www.dharmasite.net/VuTruBach.htm" style="text-decoration: none;"> Quyết không ngừng nghỉ!</a><span style="color: navy;">." <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#10*" style="text-decoration: none;">(10)</a>. Nếu tín đồ Phật Giáo chỉ quan tâm là thầy mình có khả năng thần thông hay không, mà không nhận ra tinh thần từ bi giáo hóa chúng sanh của thầy mình, thì tín đồ đó đã lẫn lộn mục tiêu và không phải là đệ tử chân thật của Phật.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify"><span> </span><o:p></o:p></div><div align="justify" class="MsoNormal"><a href="" name="8"></a><span style="font-family: Arial;"><b><span style="color: navy;">Chương Tám: Đi Vào Tịch Tĩnh</span></b><span style="color: navy;"> </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Vào ngày 4 tháng 12 năm 1994, khi Hòa Thượng được đưa vào bệnh viện vì quá kiệt sức, Ngài nói: </span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">“Tôi muốn nói với quý vị những gì cần làm sau khi tôi ra đi. Tất cả quý vị nên chuẩn bị tâm lý. Tôi có thể ra đi bất cứ lúc nào. Không có gì cố định cả. Mọi người đều có lúc đến và có lúc đi. Đừng buồn. Cứ hành xử giống như quý vị hành xử lúc bình thường.” </span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Sau khi bốn chúng đệ tử nhiều lần thỉnh cầu, Hòa Thượng trụ thế thêm sáu tháng nữa. Khi<span> </span>Hòa Thượng chịu đau đớn đến tột cùng vì mang nghiệp của chúng sanh <a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#11*" style="text-decoration: none;">(11)</a>, Ngài nói: </span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">“Tôi sẽ không tự giúp mình dầu chỉ nhấc ngón tay trong khi tôi nằm trên giường này.</span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tôi nay như hai con người. Một con người thì vẫn đi đó đây độ chúng sanh. Còn con người ở đây, tôi không để ý. Tôi sẽ không tự giúp mình.” </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Ôi, thật là sự bạc phước của chúng sanh! Hòa Thượng đi vào tịch tĩnh lúc 3 giờ 15 ngày 7 tháng 6, năm 1995 (nhằm ngày 10 tháng 5, năm Ất Hợi). Vị Tổ Sư thứ chín của dòng Thiền Quy Ngưỡng đã nhập Niết Bàn, và vị kế thừa Lão Hòa Thượng Hư Vân đã trở thành một phần của lịch sử. </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span lang="FR" style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Có người tự hỏi tại sao là người có những thành tựu cao tột như vậy mà Hòa Thượng lại hiện tướng bệnh trước khi ra đi. Thật ra, câu trả lời rất đơn giản. Tất cả những Đại Sư nổi bật qua nhiều thế hệ đã có lý do của họ để hiện tướng nhân duyên nào đó trước khi mất. Truyện kể trong Kinh Lục Tổ, khi Lục Tổ còn sống có những người muốn giết ngài; sau khi ngài mất, có người muốn chặt đầu ngài, mang về nhà để cúng dường. Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, ngài bị người toan đầu độc và ám hại sáu lần. Tổ Ấn Độ thứ hai mươi bốn là Tôn Giả Sư Tử bị chặt đầu do lệnh của triều đình.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trước khi Đại Sư Huyền Trang mất, ngài bị trượt chân và té, sau đó bị bệnh phải nằm lâu ngày trên giường, ngài nói:<span> </span>"Tất cả những phiền não, tình cảm và ác nghiệp của tôi từ vô thủy, nhờ đức của cơn bệnh nhẹ này mà tất cả đã tiêu trừ. Do đó tôi nên vui". Thầy của ngài, Hòa Thượng Giới Hiền, là một biện luận sư, bị bệnh nặng vào lúc tuổi già và quá đau đớn đến nỗi muốn tự tử. Sau đó Bồ Tát Quán Âm đến trong giấc mơ của ngài và nói :<span> </span>"Hãy thành tâm sám hối, hay kiên nhẫn chịu đựng đau khổ, và hay tinh tấn xiển dương Kinh Luận, thì nghiệp chướng của ông sẽ tự nhiên được tiêu trừ". </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trước khi Hòa Thượng nhập diệt, Ngài có làm bài thơ về bệnh của mình: </span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tôi thở khó sống ngày còn lại,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Buộc ràng trong nỗi khổ bệnh già.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Ngày ăn uống như dùng độc dược,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tối nằm giường bệnh như trùng cứng,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Trong mộng lại gặp quỷ vô thường,</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Tỉnh giấc nào thấy thần đến cứu.</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Biết chăng mạng người một hơi thở?</span><span lang="FR"><o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span lang="FR" style="color: navy;">Mau về chốn tự tại thanh tịnh. </span><a href="http://www.dharmasite.net/thiluan.htm#12" style="text-decoration: none;">(12)</a><span style="color: navy;"></span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Cho đến lúc nhập diệt vào ngày 7 tháng 6 năm 1995, sức khỏe của Hòa Thượng không có dấu hiệu cải thiện. Cũng không có những điềm lành hay phép lạ xảy ra. Bằng cách đó, không để lại dấu vết, Ngài ôm trọn Pháp nhân duyên: thành trụ hoại không và sanh lão bệnh tử. Suốt cuộc đời Ngài, Hòa Thượng đã chữa lành bệnh vô số chúng sanh, nhưng lại không quan tâm đến bệnh của mình. Ngài chọn cách ra đi đau đớn nhất: chết vì bệnh. </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Chúng ta biết rằng Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất có thần thông diệu dụng và đã cứu vô số chúng sanh. Ảnh hưởng của Ngài lan rộng khắp nước. Ngài có 84 đại đệ tử, nhưng bản thân Ngài thường luôn bị bệnh. Khi chúng ta nghĩ về tinh thần Bồ Tát của những bậc đại sư này, chúng ta phải phát lời tán thán vô tận! </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Và còn có Lão Hòa Thượng Hư Vân, sống đến 120 tuổi và là một bậc anh hùng trong Thiền Tông. Cuộc đời Ngài trãi qua mười nạn, bốn mươi tám biến cố hiếm có và vô số điều kỳ diệu. Khi Ngài được 112 tuổi, Ngài bị đệ tử đem bán, bị cướp và bị Cộng Sản tra tấn. Ngài chết đi sống lại nhiều lần sau khi bị đánh đập bằng chùy sắt cho đến chảy máu và xương gân đều gãy đứt. </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial;">Đại Sư Hám Sơn, người đã để lại nhục thân bất hoại, cũng đã chịu sự tra tấn tàn bạo và chết vì cục bướu trên lưng. Hòa Thượng Quảng Khâm, một vị cao tăng trong thời đại của Ngài, cũng thị hiện bệnh vào năm 1975, và một vị Pháp Sư tại chùa của Ngài đã nói: "Hòa Thượng nói rằng Ngài sẽ thi hiện bệnh lúc mất bởi vì thế giới Ta Bà có quá nhiều đau khổ: Làm sao Ngài có thể chịu phí thì giờ được ?" Hòa Thượng Quảng Khâm nói rất đúng:<span> </span>"Thế giới Ta Bà có quá nhiều đau khổ: Làm sao Ngài có thể phí thì giờ ở đây được ?".<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Có lần có người hỏi Hòa Thượng Quảng Khâm: "Nếu có người có sự chứng đắc rất cao trong việc tu hành, nhưng lại chết vì bệnh hoặc vì tai nạn, đó phải chăng là do định nghiệp của người đó khó có thể chuyển đổi được ?" Hòa Thượng Quảng Khâm trả lời: "Ông có thể nói định nghiệp của người đó khó chuyển đổi, nhưng ông cũng có thể thấy đó là người đó đang trả nghiệp." </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Chỉ những người có tu hành chứng đắc mới gặp những đau khổ và hoạn nạn. Đúng ra là công đức tu hành của người đó đã giúp người đó trong lần này trả một lần cho hết mọi thứ." Có vài bài thơ về Hòa Thượng mà tôi nghĩ nên chia sẻ và những bài thơ này đều có ý nghĩa sâu xa, do đó tôi ghi lại đây: </span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Lão tăng nhàn nhã đến, không có gì làm. </span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Chơi trốn tìm và nằm trên giường bệnh.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Xem sự hiện hữu, quán lý không: không mà không không. </span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Để chẩn bệnh, tìm về nguồn: Nguồn là không nguồn. </span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Những dòng nầy giải thích rõ ràng về hiện tượng bệnh của Hòa Thượng. Như tôi đã nói trước đây, tất cả chư Tổ và các bậc Đại Sư đều có nhân duyên giáo hóa chúng sanh trong cõi Ta Bà. Chúng ta nên đánh giá thành tựu của một người bằng cách xem xét sự thực hành Bồ Tát Đạo suốt đời, sự từ bi cứu độ chúng sanh, và sự đóng góp cho Phật Giáo của người đó. Chúng ta không nên phán xét một người chỉ dựa vào phép lạ hay điềm lành. Sau Lễ Trà Tỳ Hòa Thượng, hơn mười ngàn xá lợi được tìm thấy (có cả xá lợi hoa và mười hai răng xá lợi), có đủ màu sắc, gồm trắng, nâu, xanh lá cây, xanh da trời, đen và tím. Có nhiều xá lợi thành hình trên xương, lóng lánh như ngọc thạch, rất hiếm. Điều nầy chứng tỏ rằng công đức không th</span><span style="color: navy;">ể</span><span style="color: navy;"> nghĩ bàn của Hòa Thượng từ việc thuyết pháp kinh điển hơn mười ngàn lần và suốt đời không bao giờ nói dối. </span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><a href="" name="9"></a><b><span style="color: navy;">Chương Chín: Kết Luận</span></b><span style="color: navy;"> </span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Tổ Bồ Đề Đạt Ma, không quản ngại xa xôi đã đưa Phật Pháp từ Ẩn Độ đến Trung Hoa, là nơi Phật Pháp được thịnh vượng. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã phát nguyện mang Phật Pháp sang Âu Châu và Mỹ Châu, nơi đó có thể hướng dẫn nhiều chúng sanh hơn để dong thuyền về bờ Trí Tuệ bên kia. Khi Hòa Thượng ở Hoa Kỳ, Ngài phát ba đại nguyện: </span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">1. Chú trọng đạo đức trong nền giáo dục, xiển dương giáo dục như là hành động thiện nguyện.<span> </span></span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">2. Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ, và thành lập Viện Phiên Dịch.<span> </span></span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">3. Tạo thuận lợi trao đổi và đoàn kết giữa các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa; đoàn kết Đại Thừa và Tiểu Thừa.<span> </span> </span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hòa Thượng cho rằng giáo dục cũng quan trọng như hoằng pháp. Học sinh tại Vạn Phật Thánh Thành phải học thuộc lòng "Quy Luật Học Sinh" (Đệ Tử Quy) và "Tam Tự Kinh". Hòa Thượng có thể được xem như là người đầu tiên khuyến khích việc giáo dục thiện nguyện tại Tây Phương. Ngài tích cực tìm những giáo sư thiện nguyện để củng cố những tiêu chuẩn cao cả về học vấn cũng như đạo đức. Hòa Thượng phát nguyện trông coi việc phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ trên thế giới khi Ngài xuất gia. Ngài có thể được xem như vì tăng thứ ba, sau ngài Huyền Trang và Jianzhen, đã phát nguyện này. </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hơn 130 bộ sách đã được phiên dịch sang Anh ngữ, và đang tiến hành việc dịch sang các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt và tiếng Nam Dương. Hòa Thượng cũng bỏ nhiều công sức để đoàn kết các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Các truyền thống Bắc tông và <st1:place w:st="on"><st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region> </st1:place>tông đều nhằm mục đích giúp chúng sanh phát Bồ Đề Tâm, chấm dứt sanh tử, xa lìa khổ não, đạt được an lạc. Do đó, các truyền thống Bắc tông và <st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place> </st1:country-region>tông của Phật Giáo nên có sự cảm thông với nhau và xem cả hai đều là một. Đừng nên anh làm chuyện anh và tôi làm chuyện tôi, như thế sức mạnh Phật Giáo sẽ bị phân tán.<span> </span> </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Bất cứ người nào tìm cách gây chia rẽ trong Phật Giáo đều không phải là đệ tử Phật. Đừng nói Đại Thừa hay Tiểu Thừa, ngay cả một thừa cũng không có! Sự ích kỷ của chúng ta, sự mong muốn làm hại người khác và chỉ giúp cho chính mình, và lòng mong muốn tán dương chính mình và lăng mạ người khác, đây là những nguyên nhân đưa đến chiến tranh. </span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hòa Thượng có lần đã nói về tự trách trong việc phân chia giữa Phật Giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy: </span><o:p></o:p></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">“Tôi cũng có lỗi trong Phật Giáo. Vì sao ? Bởi vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của mình. Tôi chưa thành công trong việc làm gần lại khoảng cách giữa các truyền thống Bắc tông và <st1:place w:st="on"><st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region> </st1:place>tông. Nếu các truyền thống Bắc tông và Nam tông chối bỏ lẫn nhau và mỗi tông đều giương lên cờ của mình và chỉ dụng công trên bề mặt của sự vật, như vậy làm sao Phật Giáo có thể đoàn kết được ?” </span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Nhiều sự đối thoại giữa các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã xảy ra tại Vạn Phật Thánh Thành, mở ra một trang mới trong lịch sử Phật Giáo Tây Phương.<span> </span></span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Hòa Thượng nói Ngài một mình từ Á Châu, cách xa hàng nghìn dặm, đến Hoa Kỳ là "vùng đất xa lạ chưa có Phật Pháp gì cả", để mang Chánh Pháp sang phương Tây. Ngày nay Vạn Phật Thánh Thành đã trở thành một đạo tràng chánh ở Tây Phuơng cùng nhiều đạo tràng chi nhánh được thành lập. Hòa Thượng đã hướng dẫn các đệ tử gồm nhiều quốc tịch khác nhau để truyền bá Chánh Pháp và để cùng làm việc mang các tôn giáo lại với nhau. Hòa Thượng đã đi trên con đường dài này với những bước chân đều đặn chưa từng có. Sự mong mỏi của Hòa Thượng là tất cả chúng sanh sẽ thành Phật trước Ngài. Ngài muốn giúp tất cả chúng sanh xa lìa khổ não, đạt được an lạc, tìm lại trí tuệ chân thật, đạt được tự do, giải thoát. Trong một bài nói chuyện, Ngài nói: </span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">“Tôi chỉ là con kiến nhỏ muốn bò dưới chân tất cả các Phật tử. Tôi là con đường, tôi hy vọng tất cả chúng sanh sẽ bước lên tôi và đi từ phàm phu đến Phật quả. Nếu bất cứ đệ tử nào của tôi dọa vào địa ngục, tôi muốn thay thế họ.</span><o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Tôi nguyện rằng những kẻ thấy tôi hay nghe giọng nói của tôi, hoặc chỉ nghe đến tên tôi, sẽ nhanh chóng trở thành Phật. Tôi sẵn sàng ở lại trong thế giới Ta Bà này và đợi tất cả quý vị thành Phật.” </span><o:p></o:p></span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: navy;">Sự cống hiến suốt cả đời của Hòa Thượng cho Phật Giáo rộng lớn như hư không, làm sao bài viết nầy có thể mô tả đầy đủ tất cả được ? Ngài đã để lại vô số Pháp bảo cho chúng ta, do đó từ nay chúng ta nên tinh tấn tu hành, theo Sáu Đại Tông Chỉ. Chỉ đến lúc đó chúng ta mới có thể báo đáp công lao của Hòa Thượng, và hy vọng Hòa Thượng sẽ sớm trở lại, nương theo nguyện lực của Ngài, để cứu độ chúng sanh.</span><o:p></o:p></span></div><div align="center"> </div><blockquote><blockquote><blockquote><blockquote><blockquote><hr /><div align="justify"><br />
</div></blockquote></blockquote></blockquote></blockquote></blockquote><div align="justify"><b><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:</span></b></div><b></b><div align="justify"><a href="" name="2a1"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: x-small;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">(1) - Mạnh Tử <img border="0" height="13" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1amt.gif" width="29" /> (Mạnh Kha), người đất Châu (372-289 trước Tây lịch), là một nhà hiền triết có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ đạo Nho.</span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">- Dương Tử <img border="0" height="14" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1dt.gif" width="32" /> (Dương Chu), người nước Vệ (khoảng 440-360 trước Tây lich); là một triết gia thời Chiến Quốc, sinh vào khoảng 440-360 trước Tây lịch; chủ trương thuyết "vị ngã"—chi lo riêng về việc mình mà không hề đếm xỉa đến thiên hạ sự, quyết gạt bỏ ngoài tại chuyện của người.</span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">- Mặc Tử <img border="0" height="13" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1mt.gif" width="33" />(Mặc Địch), người nước Sở, là một đại học giả thời Chiến Quốc, làm Đại Phu cho nước Tống; chủ trương thuyết kiêm ái và hòa bình; lập ra học phái Mặc Gia, lấy kiêm ái làm chủ đích.</span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-size: small;"><a href="" name="1*"><span style="font-family: Arial;"></span></a><span style="font-family: Arial;">(1*) - Trong bài phú <em><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;">A Phòng cung phú</span></em> của Đỗ Mục có câu: “<em><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;">D</span></em><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;"><em>iệt nhà Tần, chính do Tần</em></span>,<span style="font-family: Tahoma, sans-serif;"><em> không phải do thiên hạ.</em></span>” </span>族 秦 者<span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;"><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;">, </span></span>秦 也<span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;"><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;">, </span></span>非 天 下 也 <span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: x-small;"><span style="font-family: Tahoma, sans-serif;">Tộc Tần giả, Tần dã; phi thiên hạ dã. (Cổ Văn Quan Chỉ, q. 8, tr. 309.)</span></span></span></div><div align="justify"><span style="font-size: small;"><a href="" name="2a2"><span style="color: red; font-family: Arial;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial;">(2) Lão Hòa Thượng Quảng Khâm đã từng khai thị rằng: "Trên thế gian hiện nay, đích thực có những người xuất gia như thế. Họ chỉ mưu tính khuếch trương ngôi chùa của mình cho lớn, chiêu dụ tín đồ theo mình cho đông, để khoe là có khả năng trước mặt mọi người! Họ không cho phép tín đồ kính tin các vị Phật ở những chùa khác (chỉ được tin vị Phật ở chùa của họ mà thôi!); và tín đồ cũng chỉ được tin một mình họ thôi, không được tôn kính những người xuất gia khác. Hạng người cống cao ngã mạn, tự tôn tự đại này, chẳng phải vẫn còn lăn lóc trong vòng danh lợi giống như người tại gia bình thường, sống lây lất trong khổ não qua ngày đoạn tháng sao? Phật Pháp vốn chưa suy vi, chính là lòng người đang suy vi vậy!" </span></span></div><div align="justify"><span style="font-size: small;"><a href="" name="2a3"><span style="color: red; font-family: Arial;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial;">(3) Nguyên văn "Phụ Phật pháp ngoại đạo" [ <img border="0" height="14" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1a3.gif" width="88" /> ]: Ngoại đạo trong Phật pháp. Theo sách Chỉ Quán quyển 10 sự khác nhau của tà nhân còn có ba loại. Một là ngoại đạo ngoài Phật pháp, hai là ngoại đạo phụ vào Phật pháp, ba là học Phật pháp trở thành ngoại đạo. (Tự Điển Phật Học Hán Việt trang 1022).</span></span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;"> <a href="" name="2a4"></a>(4) Nguyên văn "Nhất châm kiến huyết" <span style="font-family: Tahoma; font-size: x-small;">[</span><img border="0" height="14" src="http://www.dharmasite.net/images/thiluan1a4.gif" width="66" /> ] : Một kim thấy máu, là thành ngữ Hoa ngữ ý nói "nói ngắn gọn đúng vào điểm chánh".</span></div><div align="justify"><span style="font-size: small;"><a href="" name="5*"><span style="color: red; font-family: Arial;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial;">(5) Chứng kiến tâm tánh khó đổi của một số đệ tử, vào tháng 6 năm 1993 Hòa Thượng đã đau lòng cảnh giác mọi người trên khắp thế giới<a href="http://www.dharmasite.net/attention.htm" style="text-decoration: none;">http://www.dharmasite.net/attention.htm</a> </span></span></div><div align="justify"><span style="color: red;"><a href="" name="6*"></a>(<span style="font-family: Arial; font-size: small;">6) <span style="background-attachment: scroll; background-position: 0% 50%; background-repeat: repeat repeat;">Ở Trung Hoa, người ta dùng hai chữ “dược (thuốc)” và “thạch (đá)” để chỉ chung cho thuốc men. </span>Dược thạch: còn gọi là dược thực, có ý nghĩa là món ăn chữa khỏi bệnh đói khát. Đây là một ẩn ngữ để chỉ món cháo buổi chiều của Thiền lâm. </span></span></div><div align="justify"><span style="color: red; font-size: small;"><a href="" name="7*"></a><span style="font-family: Arial;">(7) Tứ thực: Bốn cách ăn<o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">1) Đoạn thực: Cách ăn phân chia ra thành từng đoạn, từng miếng. Cũng gọi là “đoàn thực,” cách ăn vo lại thành từng nắm.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">2) Xúc thực: Cách ăn bằng sự cảm xúc đối với cảnh. Cũng gọi “lạc thực,” cách ăn bằng sự vui sướng.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">3) Tư thực: Cách ăn bằng ý nghĩ. Cũng gọi là “niệm thực.”<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 0px; margin-top: 0px;"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">4) Thức thực: Cách ăn bằng tri thức, lấy Thức duy trì Thể.</span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: red; font-size: small;"><a href="" name="8*"></a>(<span style="font-family: Arial;">8) Cà-sa. Tên gọi đầy đủ là Cà-sa-duệ; nghĩa là hoại sắc, bất chánh sắc; và là pháp y của người xuất gia tu hành theo đạo Phật. Áo này hình chữ nhật dài, do nhiều miếng vải nhỏ khâu nối với nhau nên trông như hình thửa ruộng. Có 3 thứ áo cà-sa (tam y):<o:p></o:p></span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">1) Tăng-già-lê (samghati), cũng gọi là đại y hay tổ y; hịêp lại từ 9, 15, hoặc 25 miếng vải (cái áo tràng);<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">2) Uất-đà-la-tăng (uttâra-samgha), tức là thất điều y, gồm 7 miếng vải hiệp lại (cái áo giữa);<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">3) An-đà-hội (antarvâsaka), tức là ngũ điều y, gồm 5 miếng (cái áo trong, áo lót).</span></div></blockquote><div align="justify" class="MsoNormal"><span style="font-size: small;"><a href="" name="9*"><span style="color: red; font-family: Arial;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial;">(9) Xích cà-sa. Còn gọi là xích y, xích giáng y, tức là áo cà-sa màu đỏ.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="reading"><span style="color: red; font-size: small;">三 衣<span style="font-family: Arial;">; S: tricīvara; y phục ba phần, cũng được gọi là »Nạp y« (</span>衲 衣<span style="font-family: Arial;">; s: kanthā) bộ áo vá chắp;<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="none"><span style="color: red; font-size: small;"><span style="font-family: Arial;">Y phục của một <a href="http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T178.htm" style="text-decoration: none;">Tỉ-khâu</a> hoặc <a href="http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T179.htm" style="text-decoration: none;">Tỉ-khâu-ni</a>. Phần trong (dưới) được gọi là An-đà-hội (</span>安 陀 會<span style="font-family: Arial;">; s: antaravāsaka) là một mảnh vải vá (năm mảnh vải vá lại) cuộn lại dùng làm đồ lót dưới. Phần ngoài là Uất-đa-la-tăng (</span>鬱 多 羅 僧<span style="font-family: Arial;">; s: uttarāsaṅga) cũng là một tấm vải vá dùng để khoác ngoài để đi khất thực. Phần thứ ba là Tăng-già-lê (</span>僧 伽 梨<span style="font-family: Arial;">; s: saṅgāti), một tấm vải khoác ngoài, chỉ được dùng trong những ngày lễ và được vá từ 9-25 mảnh vải nhỏ. Màu của nạp y thường là màu vàng nhưng cũng thay đổi tùy theo tông phái, theo truyền thống. Tăng, ni tại Trung Quốc thường mang màu xanh, nâu. Tại Tây Tạng người ta chuộng màu đỏ, tại Nhật màu đen. Tất cả những y phục này đều phải được may từ nhiều mảnh vải để nhấn mạnh truyền thống sống cơ hàn, vô sản của một tỉ-khâu.</span><o:p> </o:p></span></div><div align="justify" class="none"><span style="color: red; font-size: small;"><a href="" name="10*"></a><span style="font-family: Arial;">(10) Câu thơ của Hòa Thượng trong bài <a href="http://www.dharmasite.net/VuTruBach.htm" style="text-decoration: none;">Vũ Trụ Bạch </a></span></span></div><div align="justify" class="none"><span style="font-size: small;"><a href="" name="11*"><span style="color: red; font-family: Arial;"></span></a><span style="color: red; font-family: Arial;">(11) Trong bộ sách "In Memory of The Venerable Master Hua" có nhiều câu chuyện của các đệ tử của ngài kể về nguyện thừ 12 của ngài: "Nguyện rằng một mình con sẽ nhận chịu hết tất cả khổ nạn của chúng sinh trong toàn Pháp Giới.". Trong bài viết "</span></span><span style="font-family: Tahoma; font-size: small;"><a href="http://www.dharmasite.net/LamTheNaoHoaThuongCoTheDoDuocNguoiTayPhuong.htm" style="text-decoration: none;">Làm Thế Nào Hòa Thượng Có Thể Độ Được Người Tây Phương ?</a></span><span style="color: red; font-family: Arial;">" của Sư Cô Hằng Lương có đoạn đề cập:</span></div><div class="MsoNormal"><span style="color: red; font-size: small;"><span style="font-family: Arial;">(Tạm dịch): </span></span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"... Tôi nhớ một lần nọ tại Vạn Phật Thánh Thành, có một Tỳ-kheo-ni phạm lỗi lầm, và phạm giới. Cô được Hòa Thượng dạy, giống như ngài đã dạy tất cả chúng ta, là thú nhận lỗi lầm và sám hối sửa đổi. Cô quỳ trong Phật điện giữa đại chúng và đối diện Hòa Thượng, cô sám hối và sau đó Hòa Thượng ngồi trên ghế cao nhìn xuống cô và nghiêm khắc nói, "Những gì con đã làm sẽ làm cho con đọa địa ngục.” Bởi vì vị Tỳ-kheo-ni này rất tin Hòa Thượng, nên cô rất sợ hãi. Cô hỏi “Con có thể làm gì để tự cứu mình?” Hòa Thượng trả lời với nụ cười rộng nở trên gương mặt: “Ta có một cách cứu con. Ta có thể tự mình xuống địa ngục thế con và chịu quả báo cho con.” Cô dĩ nhiên không chấp nhận điều đó, nhưng Hòa Thượng đã nói là ngài sẽ làm chuyện đó. <o:p> </o:p></span></div><div class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Một lần khác, một vị Tỳ-kheo-ni khác kể với tôi rằng một tối nọ cô bị bệnh rất nặng và ói mửa hoài không ngừng lại được. Cô rất tin tưởng vào Hòa Thượng do đó cô lễ lạy trước bức hình của ngài và cầu nguyện Hòa Thượng ban phước và lấy đi sự đau khổ của cô. Sau đó đột nhiên cô thấy khỏe, và tối đó cô nghỉ ngơi rất dễ chịu. Sáng hôm sau cô đến buổi lễ quy y lúc đó Hòa Thượng đang truyền Tam Quy Ngũ Giới. Sau khi truyền Tam Quy xong, ngài quay về phía người Tỳ kheo ni đó và nói "Sáng nay thật là khó khăn cho tôi. Vì tối hôm qua tôi đột nhiên bệnh nặng và ói mửa suốt đêm, do đó hôm nay tôi không có sức.” Vị Tỳ-kheo-ni đó biết rất rõ ràng rằng Hòa Thượng đã gánh lấy sự đau khổ của cô.<span> </span><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Nhiều người tự hỏi rằng làm thế nào mà Hòa Thượng lại bệnh như vậy và tại sao ngài lại rời bỏ chúng ta qua hình thức như vậy. Nhưng nhiều người trong chúng ta đã ở gần ngài nhiều năm và chúng ta biết rằng chúng ta cần báo đáp ân từ bi bao la của ngài. Và cách duy nhất để báo đáp là cố gắng tu hành hết sức mình.<o:p>"</o:p></span><span style="color: red; font-size: small;"> <span style="font-family: Arial;">(</span></span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"<a href="http://www.dharmasite.net/HowBuddhismChangedMyLife.pdf" style="text-decoration: none;">How Buddhism Changed My Life!</a>" t</span><span style="color: red; font-size: small;"><span style="font-family: Arial;">rang 18).</span></span></div><div align="justify" class="none"><span style="color: red; font-size: small;"><a href="" name="12*"><span style="font-family: Arial;"></span></a><span style="font-family: Arial;">(12) Bài thơ dùng thân thuyết pháp</span> <span style="font-family: Arial;">nhắc lẽ vô thường và khuyên quy hướng Tịnh độ này được Hòa Thượng đề cập trong chuyến hoằng pháp tại Đài Loan vào tháng 1 năm 1993, được ghi lại:</span></span></div><blockquote><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="font-family: Arial;"><span style="color: red; font-size: small;">(Tạm dịch): </span><span style="color: navy; font-size: small;">"</span></span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Bây giờ tôi muốn chia sẻ vài điều về hoàn cảnh bệnh gần đây của tôi. Nếu quý vị muốn ghi chép, tôi sẽ đọc chậm rãi. Quý vị có thể viết xuống và có thể nghiên cứu sau này. Bài này có tám câu, nhưng không thể xem là thơ chính thức. Có thể xem như là những câu văn xuôi bạch thoại.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Câu đầu nói : <b>Tôi thở khó sống ngày còn lại.</b> Khi hơi thở này đi ra, không chắc sẽ có hơi thở kế tiếp vào lại. </span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><b><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Buộc ràng trong nỗi khổ bệnh già.</span></span></b><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;"> Tôi không phải đòi quý vị thương hại tôi. Không phải tôi nói là tôi bây giờ quá già, tất cả quý vị nên thương hại tôi – kẻ ngu si này. Các triệu chứng già bệnh không phải mới đến trong một ngày đêm mà đã phát triển dần dần, từ lúc tôi mới sanh ra. Bây giờ chân tôi không còn linh hoạt, tay nhức, lưng đau, mắt mờ, tai lãng, và răng thì lung lay. Khi bị như vậy thì thật đau khổ, không được tự do.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-size: small;"><b><span style="font-family: Arial;">Ngày ăn uống như dùng độc dược. </span></b><span style="font-family: Arial;">Khi đến giờ ăn, tôi không thấy thích ăn. Dầu đồ ăn ngon đến đâu, khi tôi vừa nếm thì không thích ăn. Ăn như dùng độc dược.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-size: small;"><b><span style="font-family: Arial;">Tối nằm giường bệnh như trùng cứng</span></b><span style="font-family: Arial;">. Khi quý vị nghe câu này, nó không làm quý vị tức cười sao? Tôi nằm trên giường bệnh, chỉ như con trùng đã chết cứng, rất giống như vậy.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-size: small;"><b><span style="font-family: Arial;">Trong mộng lại gặp quỷ vô thường. </span></b><span style="font-family: Arial;">Quý vị có biết các con quỷ vô thường là ai không? Tôi thường gặp chúng trong giấc mơ, nhưng chúng chưa bắt tôi. Mỗi khi chúng muốn bắt tôi thì một vị Bồ tát lại đến và nói với chúng rằng “Chưa tới lúc! Không nên bắt ông ta, ông ta đang làm việc vì chúng sanh và việc ông ta chưa làm xong.” Vừa nghe như vậy, chúng liền thả tôi ra. Chúng chỉ đến trong giấc mơ để bắt tôi, và tôi đã thấy chúng nhiều lần chứ không phải chỉ một lần. Nhưng tôi cũng thấy chư Phật và chư Bồ tát đến rất nhiều lần. Khi các con quỷ vô thường thấy chư Phật và chư Bồ tát bảo vệ tôi, thì chúng nhìn quanh, đảnh lễ và sau đó rời đi. Tôi không biết tại sao chúng lại đảnh lễ tôi.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-size: small;"><b><span style="font-family: Arial;">Tỉnh giấc nào thấy thần đến cứu. </span></b><span style="font-family: Arial;">Khi tôi thức dậy, khó tìm thấy một vị thần tiên nào có thể cứu tôi. Ai có thể cứu tôi? Tôi vẫn tự mình phấn đấu và chiến đấu với các quỷ vương trong lúc bệnh.<o:p></o:p></span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Tôi nói thật với quý vị, lần này tôi đến Đài Loan, các quỷ vương đều đợi tôi, sẵn sàng khiêu chiến với tôi. Nếu tôi không có lực lượng, tôi sẽ không dám đến Đài Loan. Ở đây có rất nhiều quỷ vương. Tất cả những quỷ vương đều tìm cách ngăn không cho tôi đến Đài Loan. Tôi nói ra điều này dầu quý vị có quan tâm nghe hay không, vì tôi đã đến Đại Loan rồi, tôi có thể sẽ tùy theo hoàn cảnh. Tôi không sợ bất cứ kẻ khiêu chiến nào.<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">Những con cháu quỷ vương này là ai? Là trong những Phật giáo đồ trong thời mạt pháp.</span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">........<o:p></o:p></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span style="color: navy; font-size: small;"><b><span style="font-family: Arial;">Biết chăng mạng người một hơi thở?</span></b> <span style="font-family: Arial;">Sanh mạng chỉ trong một hơi thở, quý vị có biết điều đó không? Hãy nhanh lên chuẩn bị hành trang, và </span></span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><b><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Mau về chốn tự tại thanh tịnh. </span></span></b><span style="color: navy;"><span style="font-family: Arial; font-size: small;">Hãy mau học niệm Phật và cầu sanh về Tịnh Độ. Đó là nơi thanh tịnh nhất, không bận rộn như ở đây. Hương thơm của hoa và tiếng chim hót hoàn toàn khác biệt với thế giới của chúng ta. Do đó <i>“Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng. Những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng năm căn, năm lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo phần.”. </i>Đức Phật sau đó nói với Xá Lợi Phất rằng đừng nghĩ những chim này là súc sanh. Phật A Dì Đà tạo nên chúng bằng hóa thân để rộng tuyên Pháp âm. Chúng là chim thần, không giống như chim trong thế giới chúng ta. Những chim này có thể sống mà không cần ăn. Chúng không uống mà không khát nước. Chúng không ăn mà không cảm thấy đói. Trong khi chim thường thì sẽ nuốt chửng bất cứ sâu bọ nào mà chúng thấy, chúng lấy đi sanh mạng của sinh vật khác. Chim tại cõi Cực Lạc thì không giết hại, và người ở đó cũng vậy. Do đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán cõi Cực Lạc là nơi mà chúng sanh được thoát khỏi mọi khổ não và chỉ hưởng mọi điều vui. Bởi vì Phật Thích Ca không nói dối, chúng ta nên tin sâu chắc và đừng có chút hoài nghi nào về Thế Giới Cực Lạc.</span></span><span><span style="color: navy; font-family: Arial; font-size: small;">"</span><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;"> (</span></span><span style="color: red; font-family: Arial; font-size: small;">"Talks on Dharma during the 1993 Trip to Taiwan", trang 115 - 141).</span></div><div align="justify" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"> </div><div align="center" class="MsoNormal" style="margin-bottom: 5pt; margin-left: 0in; margin-right: 0in; margin-top: 5pt;"><span><span style="color: navy; font-family: Tahoma;"><img height="69" src="http://www.dharmasite.net/images/HayTha2.jpg" v:shapes="_x0000_s1026" width="106" /></span></span></div></blockquote></div>Relax With Mehttp://www.blogger.com/profile/09250610687578053651noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-31816667578451864532011-05-08T19:47:00.000-07:002011-05-08T19:47:21.304-07:00Tần Thủy Hoàng<div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước <b><span class="Apple-style-span" style="color: red;">không chịu buông bỏ</span></b>. Câu thơ xưa nói rằng :<o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><i>Cổ lai đa thiểu anh hùng hán<o:p></o:p></i></span></div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><i>Nam Bắc sơn đầu ngoạn thổ nê</i><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Nghĩa là : <i>Xưa nay bao người anh hùng hảo hán, nằm dưới đất bùn khắp đầy núi non.</i><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Qúy vị hãy nghĩ xem, bao nhiêu người ở trần gian, có thể nhảy qua cửa sanh tử, lúc sống thì mưu đồ hư danh, chết rồi thì danh nào còn, ta ham chức quan lớn, chết rồi thì quan vị cũng tiêu tan, mọi thứ đều hóa thành không.<o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Trung quốc có Tần Thủy Hoàng vì<span style="mso-spacerun: yes;"> </span>muốn bảo vệ con cháu khiến muôn đời sau sẽ mãi làm hoàng đế, nên cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành, nào ngờ khi truyền tới đời thứ 2, con là Hồ Hải tức là Tần Nhỉ Thế, nối ngôi chưa được 3 năm thì bị thừa tướng Triệu Cao giết chết, thế chằng phải đã hao phí tâm sức sao?<o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Xưa nay từ trong đến ngoài nước, những người cực kỳ giàu sang, <b><span class="Apple-style-span" style="color: red;">những người làm quan to chức lớn, đều sống cuộc đời mê muội, tranh danh đoạt lợi tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi, tới lúc chết thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương.</span></b><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Xem đấy khi tham thiền chúng ta phải quyết chí dụng công, không thể giải đải không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận không kịp, rằng :<o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><br />
</span></div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";"><i><b>Một chút thời gian một chút mạng sống</b></i><o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">Có người nói : <b>A chà, Tôi thành nhân rồi, Tôi sẽ buông bỏ mọi thứ chuyên tâm tu đạo, nhưng thời gian không chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.</b> Tham Thiền hay Niệm Phật đều tốt cả, chỉ cần chân thật tu hành, thì sẽ có thể thoát khỏi vòng sanh tử, tới lúc lâm chung tất sẽ <b style="mso-bidi-font-weight: normal;">thân không bệnh khổ, tâm chẳng tham luyến </b>như nhập Thiền Định mỉm cười vãng sanh, đó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy.<o:p></o:p></span></div><div class="MsoNormal"><br />
</div><div class="MsoNormal"><span style="font-family: "Arial","sans-serif";">HT Tuyên Hóa giảng trong khóa Thiền Thất năm 1980<o:p></o:p></span></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-42476318372895496372010-08-24T11:05:00.000-07:002010-08-24T11:05:44.893-07:00Những Vong Linh Thai Nhi Vô Tội - HT Tuyên Hóa và Chúng Đệ Tử<img border="0" height="0" src="http://counters.gigya.com/wildfire/IMP/CXNID=2000002.0NXC/bT*xJmx*PTEyODI2NzMwMzgxNTYmcHQ9MTI4MjY3MzA*NTE3MSZwPTE4MDMxJmQ9Jmc9MSZvPTU2YmQwY2I5MDQ5NTQxM2ZiZGI1/OWFhMTJkNzYxMTdl.gif" style="height: 0px; visibility: hidden; width: 0px;" width="0" /><br />
<br />
<center><br />
<br />
<div style="visibility: visible;"><object data="http://assets.mixpod.com/swf/mp3/mixpod.swf" height="311" style="height: 311px; width: 410px;" type="application/x-shockwave-flash" width="410"><param name="movie" value="http://assets.mixpod.com/swf/mp3/mixpod.swf" /><param name="quality" value="high" /><param name="scale" value="noscale" /><param name="salign" value="TL" /><param name="wmode" value="transparent"/><param name="flashvars" value="myid=64907306&path=2010/08/24&mycolor=C6D9E2&mycolor2=FAFAFA&mycolor3=333333&autoplay=false&rand=0&f=4&vol=100&pat=0&grad=false"/></object></div></center>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-66099649827431055152010-07-27T05:31:00.001-07:002010-07-27T05:31:27.951-07:00Giáo Dục<div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Hiện tại mọi người đi học chỉ vì danh lợi. Cách phát âm hai chữ Minh Lý và Danh Lợi trong tiếng Tàu gần giống nhau, nhưng ý nghĩa thì lại khác xa đến tám mươi bốn ngàn dặm !</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Trẻ em như mầm non đang lớn; cành cây mọc ra um tùm cần phải được cắt tỉa thì tương lai mới trở thành vật liệu hữu ích được.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nầy các bạn trẻ ! Các bạn có biết căn bản làm người là gì không ? Đó là tám đức tánh hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩ.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tại sao hiện nay trên thế giới đầy dẫy những tội lỗi do thanh thiếu niên gây ra ? Vì những bậc làm cha mẹ chỉ lo sanh con chứ không lo chăm sóc, dạy dỗ.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tâm tham của chúng ta là cái hố không đáy; nó cao hơn trời, dày hơn đất, sâu hơn biển cả, nên mãi mãi không thể lấp đầy.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Người không đạo đức mới thật là kẻ nghèo cùng.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nếu có người đến cầu Pháp, tôi sẽ bảo người ấy nên ăn ít, mặc ít, ngủ ít một chút, vì lý do: Mặc ít thì tăng phước. Ăn ít thì tăng thọ. Ngủ ít thì tăng lộc.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Con người sống không phải vì miếng ăn mà sống để làm lợi ích cho xã hội, ban phước đức cho nhân dân, và hỗ trợ cho thế gian. Người người phải: Thay Trời đem lòng từ bi giáo hóa chúng sanh. Một lòng trung thành vì nước, cứu dân.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ bận rộn vì mình và cũng không bao giờ để ý đến bọc thịt thúi này.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tại sao thế giới ngày càng băng hoại ? Vì ai ai cũng tranh danh, tranh lợi, tranh quyền, tranh địa vị, và nghiêm trọng nhất là tranh sắc dục.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tôi muốn xin quý vị món quà lớn; đó là tánh nóng giận, ngu si, phiền não, và những tâm sân hận của quý vị.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Thiên tai không phải là thiên nhiên gây tai nạn hay thiên nhiên gặp họa nạn, mà chính là tai họa nhân loại chúng ta phải gánh chịu. Những tai họa đó chính do chúng ta tự tạo ra rồi tự chuốc lấy.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Muốn phát triển Phật giáo, chúng ta phải bắt đầu từ đâu ? Theo ý tôi, trước nhất phải bắt đầu từ nền giáo dục. Nếu bắt đầu với giáo dục thì trẻ em sẽ hiểu rõ Phật giáo. Đến khi khôn lớn, tự nhiên các em sẽ giúp cho Phật giáo được phát triển rộng rãi.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Làm việc ma tức là ma. Làm việc người tức là người. Làm việc Phật tức là Phật.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Hiện tại, tôi đang ở xứ MỸ. Tôi hy vọng dân chúng xứ này đều y theo luật pháp và thay đổi những tập tục xấu xa... Nếu hành theo luật pháp thì sẽ làm công dân tốt. Nếu dân chúng trong một quốc gia đều là công dân tốt thì họ cũng là công dân tốt của toàn thế giới.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Một trong những mục tiêu của nền giáo dục là tuyển chọn nhân tài. Nhân tài là những ai ? Là những người có trí huệ thông minh. Đối với những người chậm hiểu, chúng ta phải cố gắng giúp họ khai mở trí huệ. Đó là mục đích chính.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tôi muốn cống hiến một nền giáo dục không những nối tiếp huệ mạng của chư Phật mà cũng nối tiếp huệ mạng của chúng sanh.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Đã hàm thụ nền giáo dục lành mạnh, sau khi ra trường, học sinh sẽ biết cách hành xử trong xã hội. Chúng sẽ có khả năng tạo ảnh hưởng tốt để thay đổi tập quán trong xã hội.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nhân loại gần đi đến chỗ diệt vong ! Điều này không do thiên tai hoạn nạn mà do con người đã từ từ quên dần nền luân lý đạo đức.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tạo lỗi lầm trong sự giáo dục nghiêm trọng hơn bịnh ung thư và nạn bom nguyên tử. Nền giáo dục bất chánh sẽ vô hình chung giết chết thế hệ trẻ và khiến cho họ đánh mất đi bản chất làm người, quên đi tâm linh, và không màng đến sanh mạng.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Con gái phải đợi đến hai mươi tuổi mới được có bạn trai. Con trai phải đợi đến hai mươi lăm tuổi mới có bạn gái. Bằng cách đó, thanh thiếu niên sẽ không bị hại. Nếu có bạn trai hay bạn gái quá sớm, thì các em sẽ không thể trở thành người học sinh giỏi và công dân gương mẫu. Các em phải làm người tốt và học trò giỏi để có khả năng làm việc lành trong tương lai. Nếu gặt mạ sớm trước khi chính mùi thì đó chỉ là đám mạ vô ích. Trong tương lai, nếu con người phát triển tình dục sớm, thì thế hệ sau sẽ tệ hại hơn thế hệ trước.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Trẻ em ở nước này xem tivi quá nhiều. Kết quả, trước tuổi mười bảy mười tám, chúng đã biết hẹn hò. Điều này thật tai hại vô cùng ! Chúng ta sẽ không có những nhân tài trong tương lai, vì đa số những người đó sẽ là người đần độn.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Phải dạy trẻ em những nề nếp giáo dục căn bản như không tranh, không tham, không tìm cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo, không uống rượu, không hút chích, không tà dâm. Nếu làm được như thế thì vẫn còn hy vọng để thay đổi nền giáo dục... Thật ra, nền quốc phòng căn bản nhất và triệt để nhất chính là nền giáo dục. Nếu nền giáo dục không đúng đắn thì dẫu có vũ khí quốc phòng gì cũng là vô ích... Nền giáo dục của đạo Phật là sự giáo dục cứu vớt con người bảo tồn chân tánh, tâm linh, và sanh mạng. Chúng ta đi khắp nơi đánh thức con người và thúc giục họ cải tiến nền giáo dục, kéo thế hệ trẻ tránh khỏi bờ vực tiêu vong, và xoay chuyển mối nguy hiểm diệt vong của nhân loại ở các quốc gia và trên toàn thế giới.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tất cả sự giáo dục không thể tách rời từ chữ hiếu. Tách rời hiếu hạnh ra thì không còn nền giáo dục. Trong trời đất có vô số bài học, nhưng thực sự chỉ có một bài học Hiếu hạnh. Bài học này bao trùm tất cả sự học hỏi. Học hoàn mãn bài học này thì những bài học khác cũng sẽ được hoàn tất.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tất cả thầy cô giáo phải làm gương cho học sinh qua hành động của mình. Phải ngay thẳng, chân thực, tự trọng, và truyền đạt trí huệ cùng niềm hy vọng đến cho thế hệ sau. Chớ nên tranh đấu hay biểu tình để thêm lương.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tất cả mọi người đều là thầy của tôi và tôi đều là thầy của tất cả mọi người. Tôi luôn luôn tự dạy mình, và mình tự làm thầy cho chính mình.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Học hỏi không có bắt đầu hay chấm dứt. Không có lễ tựu trường đầu niên học, ngày nghỉ lễ, ngày ra trường.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Dẫu ở nơi nào, tất cả đều là trường học. Không có nơi nào mà không phải là nơi học hỏi. Không có phút giây nào là lúc mà không học hỏi.</span></div><div align="CENTER"><span style="font-family: 'Times New Roman';">***</span></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-75684749431887394372010-07-27T05:28:00.001-07:002010-07-27T05:28:42.272-07:00Mười Phương Pháp Tu Hành<div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Đây là mười phương-pháp dạy trong kinh Hoa-Nghiêm, nơi phần Trị-Địa-Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương-pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ-Tát Hạnh, tại gia và xuất gia. Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương-pháp này. Đồng thời, sinh-hoạt của tăng chúng là sinh-hoạt hướng về sự giác-ngộ, phù-hợp hoàn-toàn với mười phương-pháp của kinh nêu ra. Phương-pháp ấy như sau:</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>1. Tụng tập đa văn</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tức là học hỏi sâu rộng Phật-Pháp. Học để biết rõ Phật-lý, chân lý. Học để tài bồi đức-hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự giải-thoát phiền-não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>2. Hư nhàn tịch tịnh</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Đây là thái-độ tự tại với đời. Nếu "đa văn" có nghĩa là chất chứa những tri-kiến, chuyện thị-phi của thế-gian, thì mình chắc chắn chiêu-cảm lấy đủ chuyện thị-phi, phiền-não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng luẩn quẩn của "việc đời". Nếu "đa văn" có nghĩa là huân-tập chân lý trong kinh-điển, tiêu-hóa (internalize) đạo lý giải-thoát, thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch-tịnh là thái-độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là nhàn, là tịch.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>3. Cận thiện tri thức</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nghĩa là gần gũi những bậc thầy có kiến-địa, giác-ngộ hay giải-thoát. Hoặc gần gũi những bậc thầy có trí-huệ và đạo-đức để dắt dẫn mình tu hành. Bậc thiện-tri-thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát bồ-đề tâm, dạy mình trương dưỡng và thành-thục bồ-đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp bế-tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi thiện-tri-thức mình mới thành-tựu được đa văn, tức là nghe nhiều những lời chỉ dạy của bậc thầy.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>4. Pháp ngôn hòa duyệt</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nghĩa là nói năng ôn-hoà vui-vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn-hoà, duyệt-lạc khi mà tâm mình thật sự ôn-hoà. Do đó mình phải tập thái-độ không tranh: không tranh-chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chửa. Khi tâm mình không thấy ai là kẻ thù, không có thành-kiến về ai cả, cũng không cho rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn thì mình rất dễ tự tại, ôn-hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. Những lúc ấy, trí-huệ hay tâm mình không còn khống-chế làm chủ lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình. Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán-sát và chú ý từng lời, khiến lời không ngược lại với tinh-thần "Bất tranh".</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>5. Ngữ tất tri thời</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tức là nói cho đúng lúc. Cổ-nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. Nếu người ta tỏ thái-độ khó chịu, không muốn nghe, buồn-bực thì chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông dài. Việc vô-ích, vô nghiã, việc thế-tục thì người tu không nên nói. Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế-tục, chuyện tranh-chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh thường và chỉ-trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe phát khởi lòng tin, phát bồ-đề-tâm, hoặc giải-trừ được bế-tắc và phiền-não trong đời sống. Nên tập quán-sát thời-cơ, nhân-duyên rồi hãy phát biểu.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>6. Tâm vô khiếp bố</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tức là tâm không sợ hãi , bố-úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể thọ nhận. Không bố-úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể thực-hành. Khi tâm có hy-vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào cũng có bố-úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp-bố là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi-ích gì.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>7. Liễu đạt ư nghĩa</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tức là dùng trí-huệ tư-duy, giải đạt thâm nghiã. Đây không phải là hiểu bề ngoài, hay học thuộc làu. Liễu đạt nghiã-lý tức là thấy được sự thể hiện của nghiã-lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên-cứu đoạn: "Thế-gian vô-thường, quốc độ nguy thuý..." mình cần phải thấy sự vô-thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là qua trực-giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô-thường ở trần-gian.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>8. Như pháp tu hành</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Trong quá trình liễu đạt thâm nghiã, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu rõ, cũng không thể dùng cảnh-giới bên ngoài để minh chứng, những lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh-giới thiền-định để giải đáp. Bởi vậy người tu cần phải "Như pháp tu hành" để phát triển năng-lực thấu hiểu chân-lý bén nhạy hơn khả-năng của đầu óc suy tư này. Như pháp có nghiã là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân-lý, đúng với giới-luật, hợp với đạo đức nhân nghiã. Khi tu không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện-tri-thức chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, hoặc là tự mình sáng tác ra phương-pháp cách thức hoàn-toàn không theo một tiền-đề, hệ-thống hay quy củ, giới-luật nào cả. Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẽ khác biệt, lập dị; Khi không cùng tu, không hoà-đồng với đại-chúng, mình phải quan-sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành thì không bao giờ có "cái mình", "cái tôi" đặc biệt "nổi" hơn kẻ khác cả.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>9. Viễn ly ngu mê</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Gốc ngu mê là ở lòng dục-vọng, phiền-não, chấp-trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền-não, bớt nóng giận, bớt cống cao, bớt dục-vọng. Do đó sẽ thêm sáng-suốt, nên Phật dạy phải "siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân. si". Phải để ý năm thứ mà dục-vọng thèm khát nhất: 1/ Tiền tài, vật chất, tivi, video. 2/ Sắc đẹp trai gái: cửa sắc dục mà không thoát được thì tu pháp môn cao siêu tới đâu cũng vô-ích, không thể giải-thoát. Kinh Lăng-Nghiêm dạy: "Dâm tâm không trừ, không thể thoát trần". 3/ Danh vọng, địa vị, tên tuổi: Mong được kẻ khác cung kính, trọng vọng cũng là hình-thức mê-muội vô cùng. 4/ Ăn uống: Thích ăn ngon, ăn sang cũng là một dục vọng đáng sợ; bởi vì thực dục chỉ là biến hoá từ sắc dục mà ra. 5/ Ngủ nghỉ: Hay nói đúng hơn là lòng ưa thích hưởng thụ, sung-sướng, làm biếng, ngồi không cho qua ngày. Khi lòng ưa thích này biến thành nghiện thì càng nguy hại hơn nữa, ví dụ như ngày nay nhiều người nghiền thuốc, rượu, bài bạc, chơi computer hay xem phim bộ, v.v.. Năm thứ trên đều cần phải lánh xa.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Nói về duyên của sự ngu mê thì có lẻ nên nói thêm về những thứ khiến mình nẩy sinh tà-kiến: 1/ Tivi, video với những chương-trình đầy dẫy bạo lực, dâm-dục, ô-nhiễm. 3/ Bạn xấu hay kẻ thiếu tri-kiến về chân-lý; Nếu người bạn có quá nhiều thói hư tật xấu thì khó thể giúp đở, gây ảnh hưởng tốt cho mình, mà mình nếu không đủ trí huệ và phương tiện, cũng không giúp đở gì y được.</span></div><div align="JUSTIFY"><span style="color: #0000a0; font-family: 'Times New Roman';"><big>10. An trụ bất động</big></span></div><div align="JUSTIFY"><span style="font-family: 'Times New Roman';">Tâm chỉ bất động khi nào tâm an-trụ hay thấy được sự thật, chân-lý bất biến. Bởi vậy trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát-triển con mắt biết thẩm-thấu sự thật hay chân-lý, gọi là Trạch-Pháp-Nhãn. Phải biết nhìn xuyên thủng hiện-tượng hay hình-tướng để biết đặng chân-lý. Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an-định, dù ở bất cứ hoàn-cảnh trắc-trở, xáo-động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị tình-dục, phiền-não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới thật sự an-trụ bất động. Mười phương-pháp trên, đa số đều dùng trí-huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được chỗ viên mãn. Song những phương-pháp trên, có thể nói, vô cùng thực tiển cho những ai sống trong tùng lâm: cứ tu tập theo chúng thì đường đạo ắt phải tiến-bộ.</span></div><hr width="15%" /><div align="center"><span style="font-family: 'Times New Roman';">(From: Bo De Hai Online, January 1997, http://saturne.info.uqam.ca/~nguyent/)</span></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-50287723078413170652010-07-23T21:34:00.000-07:002010-07-23T21:34:21.542-07:00Khổng Tử - Nhà Ðại Giáo Dục<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Vào thời Xuân-Thu Chiến-Quốc ở bên Trung Hoa, _có vị đại thánh nhân ra đời, tên là Khổng Tử. Ngài suốt đời chu du các nước để tuyên dương học thuyết nhân nghĩa đạo đức, hiếu đễ trung tín, song le không được ai hoan nghinh tiếp nhận, đâu đâu cũng bài xích Ngài cả. Tuy Ngài gặp hoàn cảnh không vừa ý như vậy, nhưng Ngài vẫn không thay đổi tông chỉ giáo dục, Ngài vẫn thủy chung đề xướng chủ nghĩa đại đồng.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Khổng Tử là nhà đại giáo dục. Ngài đề xướng một nền giáo dục bình dân được phổ cập tới tất cả mọi người. Ngài có tinh thần "dạy không hề nhàm chán, học không biết mỏi mệt." Ngài không sáng tác, chỉ chép lại tích cũ người xưa. Ngài tin vào những điều của thánh nhân nói xưa kia, rồi đem ra thực hành. Cuối đời, Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Khổng Tử có ba ngàn học sanh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Phương châm giáo dục của Khổng Tử là lấy con người làm trọng tâm, lấy thân mình làm gương. Môn đệ của Ngài có bốn hạng xuất sắc:</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">1. Xuất sắc về đức hạnh, có ngài Nhan Hồi và Mẫn Tử Khiêm.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">2. Xuất sắc về ngôn ngữ, biện luận có ngài Tử Hạ, và Tể Ngã.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">3. Xuất sắc về chính trị, có ngài Tử Lộ, và ngài Nhiễm Hữu.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">4. Xuất sắc về văn học, có ngài Tử Hạ và Tử Du.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Khi Ðức Khổng Tử qua đời, Nho-giáo phân làm hai phái. Tăng Tử thì chủ trương truyền Ðạo, và Mạnh Tử đại biểu cho phái này, trở thành phái chính thống. Tử Hạ thì chủ trương truyền Kinh, và ông Tôn Tử là đại biểu của phái này. Phái truyền Kinh thì hưng thịnh vào ba triều đại Hán, Ðường, và Thanh. Phái truyền Ðạo thì hưng thịnh vào ba đời Tống, Nguyên, và Minh.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão, đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học, Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học, còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học. Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song le người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Nho giáo thuyết giảng đạo lý làm người, thí dụ như rèn luyện nhân cách cho lương hảo. Ðạo giáo một nửa thì chú trọng rèn luyện nhân cách đạo đức, còn một nửa thì chú trọng đến việc tu hành xuất thế. Do đó các vị đạo sĩ thì chẳng cạo đầu, cạo râu, không khác gì người tại gia cả. Họ chỉ mặc y phục của những vị ẩn sĩ thời cổ xưa. Phật giáo thì phải cạo râu cạo tóc, mặc áo hoại sắc, không chú trọng đến bề ngoài, song le áo cà-sa thì không bao giờ rời thân và phải thể hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tướng. Phật giáo là tu pháp xuất thế, phải chăng là ly khai pháp thế gian, tạo ra một Phật pháp riêng biệt? Không phải đâu. Chỉ cần phải nhận thức pháp thế gian một cách rõ ràng, không bị nó làm mê muội, đó chính là Phật pháp.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Có người chủ trương tam giáo hợp nhất, (tức là Ðạo giáo, Khổng-giáo và Phật giáo hợp thành một), cho nên có câu:</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Hồng hoa bạch ngẫu thanh hà diệp,</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Tam giáo nguyên lai thị nhất gia.</span></span> <br />
<i><span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">(Hoa hồng, thân trắng, lá xanh,</span></span></i> <br />
<i><span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Ba tôn giáo ấy vốn chung một nhà.)</span></span></i> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">Ðó là biểu thị đạo lý vậy. Căn bản của Phật giáo, để phát khởi tâm tín ngưỡng thì chính là Nho giáo, do đó cần phải đọc sách, hiểu rõ nghĩa lý, trước hết phải hiểu thế nào là căn bản làm người, sau đó mới theo Pháp mà tu hành: Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn. Nghĩa là: trở về nguồn thì tánh không hai, nhưng phương tiện thì có nhiều cửa vào. Người học Phật Pháp cần phải thông suốt đạo lý nầy.</span></span> <br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">(Ngày 25 tháng 9 năm 1983)</span></span><br />
<span style="font-family: Times New Roman;"><span style="color: #0000de;">http://dharmasite.net </span></span>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-82861526114789568452010-07-16T22:18:00.003-07:002010-07-16T22:18:57.597-07:00Thức Ăn Cho Tinh Thần - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/MDkwdkNfawk&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/MDkwdkNfawk&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-69963823700470427382010-07-16T22:18:00.001-07:002010-07-16T22:18:13.666-07:00Bạn Đồng Tham Phải Động Viên Nhau Tu - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/_NePHz2c4XI&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/_NePHz2c4XI&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-76945402811959120422010-07-16T22:16:00.001-07:002010-07-16T22:16:15.829-07:00Tam Tạng Kinh 12 Bộ - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/2g11YF2Kfx0&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/2g11YF2Kfx0&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-88298274655188883652010-07-16T22:15:00.001-07:002010-07-16T22:15:33.960-07:00Không Tu Giới Định Thì Chẳng Sinh Trí Huệ - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/imzqBnzli1g&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/imzqBnzli1g&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-16678597488975458542010-07-16T22:14:00.002-07:002010-07-16T22:14:48.969-07:00Nguy Cơ Của Sự Tiến Bộ Khoa Học Kỹ Thuật - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/kFPofV3HVkg&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/kFPofV3HVkg&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-44099196868559845652010-07-16T22:14:00.000-07:002010-07-16T22:14:03.605-07:00Phiền Não Là Bồ Đề - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/gvyYQBU0d2o&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/gvyYQBU0d2o&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-16612301187741258372010-07-16T22:13:00.001-07:002010-07-16T22:13:21.100-07:00Phật Tánh Là Gốc Nguồn Của Mọi Chúng Sanh - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/UDwVlng4VL0&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/UDwVlng4VL0&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-37792260685956292942010-07-16T22:10:00.001-07:002010-07-16T22:10:35.308-07:00Bài Trừ Sắc Thái Mê Tín - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/iSVmoryllLY&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/iSVmoryllLY&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8827816131903512735.post-71260545289952613792010-07-16T22:09:00.001-07:002010-07-16T22:09:58.053-07:00Quang Âm Thiên Và Khoa Học - Tuyên Hóa HT<div style="text-align: center;"><object height="405" width="500"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/F-MIRIluTVw&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowscriptaccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/F-MIRIluTVw&hl=en_US&fs=1?color1=0x2b405b&color2=0x6b8ab6&border=1" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="500" height="405"></embed></object></div>Unknownnoreply@blogger.com0